Bệnh trào ngược thanh quản hầu (LPRD) là một bệnh viêm do các chất chứa trong dạ dày tá tràng trào ngược vào hầu, kích thích và làm tổn thương niêm mạc hầu, và vẫn là một trong những vấn đề phức tạp nhất và có liên quan đến xã hội nhất trong y học hiện đại.
Bài viết được viết bởi ThS.BS Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa, Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Trào ngược các chất chứa trong dạ dày vào đường hô hấp tiêu hóa trên gây ra nhiều triệu chứng lâm sàng, bao gồm khàn giọng, ho, đau họng, cảm giác tắc nghẽn cổ họng và chất nhầy cổ họng quá nhiều. Các chất chứa trong dạ dày thường bao gồm axit dạ dày, các chất không phải axit, mật và pepsin. Trào ngược đường hô hấp trên chủ yếu liên quan đến hầu, thanh quản và khoang mũi. Những thay đổi về niêm mạc của hầu và thanh quản chủ yếu bao gồm sung huyết và phù nề niêm mạc liên sụn phễu, tăng sản mép sau và phù dây thanh quản. Các tình trạng nghiêm trọng hơn bao gồm loét, u hạt và mất ngăn thanh quản, mặc dù những tình trạng này rất hiếm gặp.
Sinh lý bệnh của bệnh trào ngược thanh quản hầu LPRD
Năm 2002, Viện Hàn lâm Phẫu thuật Đầu và Cổ Tai Mũi Họng Hoa Kỳ lần đầu tiên đề xuất khái niệm bệnh trào ngược thanh quản hầu. Hiện nay, định nghĩa về bệnh trào ngược thanh quản hầu (viết tắt là LPRD) vẫn còn gây tranh cãi và có sự bất đồng giữa các chuyên gia về cơ chế sinh bệnh của nó. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng LPRD là một dạng triệu chứng ngoài thực quản của GERD và cơ chế sinh bệnh của nó khá giống với GERD. Tuy nhiên, các bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng coi bệnh trào ngược thanh quản hầu là một rối loạn độc lập. Người ta tin rộng rãi rằng cơ chế sinh bệnh của bệnh trào ngược thanh quản hầu bao gồm thuyết trào ngược, thuyết phản xạ, thay đổi hành vi và các yếu tố tâm lý.
Lý thuyết trào ngược
Trào ngược là tình trạng trào ngược dịch dạ dày vào hầu và thanh quản, gây tổn thương trực tiếp đến mô niêm mạc. Trong điều kiện sinh lý, cơ thể có cơ chế chống trào ngược, bao gồm cơ thắt thực quản trên (UES), cơ thắt thực quản dưới, chân cơ hoành, nhu động thực quản liên quan đến nuốt, khả năng kháng axit và khả năng thanh thải của niêm mạc thực quản. Cơ chế chống trào ngược ngăn không cho dịch dạ dày trào ngược vào hầu và gây tổn thương trực tiếp đến mô niêm mạc hầu.
Tuy nhiên, trong điều kiện bệnh lý, các cơ chế chống trào ngược có thể bị tổn thương riêng lẻ hoặc đồng thời, khiến dịch dạ dày trào ngược lên niêm mạc hầu thanh quản. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng niêm mạc thực quản có thể chống lại 50 đợt trào ngược tiềm ẩn mỗi ngày mà không gây tổn thương mô. Tuy nhiên, niêm mạc hầu thanh quản có thể bị tổn thương bởi bốn đợt trào ngược mỗi ngày. Điều này chỉ ra rằng niêm mạc hầu thanh quản mỏng manh hơn và nhạy cảm hơn với kích thích. Đồng thời, các thành phần của trào ngược dạ dày rất phức tạp, bao gồm axit clohydric, pepsin, mật và trypsin. Những chất khác nhau này gây ra các triệu chứng và cơ chế bệnh sinh của tổn thương thanh quản hầu.
Đây là lý do tại sao, mặc dù thuốc ức chế bơm Proton PPI là lựa chọn hàng đầu để điều trị bằng thuốc trào ngược thanh quản hầu, nhưng có tới 40% bệnh nhân mắc trào ngược thanh quản hầu không thuyên giảm. Hiệu quả của PPI đối với LPRD không có tính axit là không thỏa đáng. Do đó, việc phát triển các loại thuốc nhắm mục tiêu vào LPRD không có tính axit là rất cấp thiết. Một cuộc khảo sát cho thấy tỷ lệ mắc LPRD không có tính axit và hỗn hợp lần lượt đạt 25,4% và 35,5% . Xem xét tính phức tạp của LPRD, cần phải nghiên cứu cơ chế tác động của các chất trào ngược khác nhau lên LPRD. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của LPRD bao gồm thành phần, thời gian và tần suất trào ngược.
Lý thuyết phản xạ
Họng là cơ quan thiết yếu ở người, kết nối miệng với hệ hô hấp và tiêu hóa. Nó quan trọng đối với cả việc thở và nuốt. Vì thực quản và phế quản có cùng nguồn gốc phôi nên có một con đường phản xạ phế vị chung giữa chúng. Ở trạng thái sinh lý, nếu các thụ thể thần kinh ở hầu bị kích thích bởi các chất có tính axit, nó có thể gây co thắt phế quản, tích tụ chất nhầy dính, nuốt không tự chủ, phản xạ đóng thanh quản và phản xạ ho, thông qua các phản xạ thần kinh. Một khi LPRD xảy ra, bệnh nhân thường ho và hắng giọng để làm giảm cảm giác khó chịu ở cổ họng. Các hành động trên làm trầm trọng thêm tình trạng phù nề và tổn thương niêm mạc cổ họng, dẫn đến rối loạn cảm giác ở cổ họng, sau đó bước vào vòng luẩn quẩn của ho dai dẳng mãn tính và hắng giọng.
Mối liên hệ giữa LPRD và các bệnh về đường hô hấp liên quan
Trào ngược thanh quản hầu là phản ứng viêm xảy ra ở niêm mạc của các cơ quan hô hấp như thanh quản và hầu. Trào ngược dịch dạ dày ra ngoài thực quản có thể gây ra các bệnh về đường hô hấp trên và dưới. Các nghiên cứu hiện tại đã chỉ ra rằng LPRD có liên quan đến nhiều bệnh về đường hô hấp trên và dưới, chẳng hạn như viêm họng mãn tính, viêm thanh quản mãn tính, u hạt tiếp xúc thanh quản, co thắt thanh quản kịch phát, phù nề không gian, bệnh bạch sản dây thanh quản, ung thư thanh quản thanh quản, ho mãn tính, hen suyễn, hẹp dưới thanh quản ở trẻ em, viêm tai giữa tiết dịch, viêm xoang và hội chứng ngưng thở khi ngủ.
Trào ngược thanh quản hầu và viêm xoang
Có mối quan hệ giữa LPRD và viêm xoang tái phát mạn tính (CRS). Mặc dù CRS và LPRD có diễn biến khác nhau, nhưng chúng có thể cùng tồn tại ở cùng một bệnh nhân. Trong các nghiên cứu ca-chứng, bệnh nhân mắc LPRD được phát hiện có nguy cơ mắc viêm xoang một năm sau khi chẩn đoán. DelGaudio và cộng sự phát hiện ra rằng bệnh nhân mắc CRS kháng trị có tỷ lệ mắc LPRD cao hơn bệnh nhân đối chứng. Cơ chế sinh bệnh của CRS vẫn chưa rõ ràng, nhưng hầu hết các học giả tin rằng nó liên quan đến tổn thương niêm mạc do kích thích trực tiếp, tác động của pepsin và phản ứng quá mức tự chủ do trào ngược. Tất cả các yếu tố trên đều gây phù nề và giữ lại dịch tiết trong niêm mạc khoang mũi và xoang, sau đó là nhiễm trùng thứ phát. LPRD có thể gây hắt hơi, sổ mũi, nghẹt mũi và một loạt các triệu chứng viêm mũi dị ứng tương tự như viêm mũi trào ngược họng.
Trào ngược thanh quản hầu và polyp dây thanh quản
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng trào ngược thanh quản có liên quan đến polyp dây thanh quản, nhưng liệu nó có phải là yếu tố nguy cơ độc lập hay không vẫn chưa rõ ràng. Kantas và cộng sự phát hiện ra rằng trào ngược hầu đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa tỷ lệ polyp dây thanh quản và làm giảm tỷ lệ tái phát của polyp dây thanh quản, và đề xuất rằng trào ngược hầu có liên quan đến tổn thương tái tạo dây thanh quản. Hiện nay, nghiên cứu về trào ngược thanh quản và polyp dây thanh quản còn hạn chế và cơ chế cụ thể của trào ngược thanh quản gây ra polyp dây thanh quản vẫn chưa rõ ràng.
Biểu mô là rào cản đầu tiên của dây thanh quản để chống lại các chất kích thích lạ và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tổn thương biểu mô thanh quản do trào ngược thanh quản là nguyên nhân gây bệnh chính. Đầu tiên, axit dạ dày, pepsin, trypsin, muối mật và protein khí-tá tràng kích thích trực tiếp niêm mạc họng, nhưng thanh quản không có cơ chế bảo vệ chống lại trào ngược dạ dày và tá tràng. Thứ hai, trào ngược kích thích các thụ thể hóa học niêm mạc xa của thực quản gây ra phản xạ thần kinh phế vị, dẫn đến tổn thương thanh quản gián tiếp như ho và hắng giọng, nhưng cơ chế vẫn còn gây tranh cãi.
Một số nghiên cứu đã tìm thấy pepsin trong polyp dây thanh quản và suy đoán rằng cơ chế trào ngược thanh quản tham gia vào quá trình sinh bệnh của polyp dây thanh quản có thể là pepsin thúc đẩy sự kết tụ của các tế bào miễn dịch và dẫn đến sự gia tăng các cytokine tại chỗ. Axit mật phá vỡ chức năng hàng rào biểu mô của thực quản bằng cách điều chỉnh biểu hiện của claudin (CLDN) 1 và CLDN4 và tăng khoảng cách giữa các tế bào biểu mô. Tuy nhiên, biểu hiện của CLDN1 và CLDN4 trong mô polyp dây thanh quản tăng lên và axit mật trào ngược có thể phá hủy hàng rào biểu mô của dây thanh quản và gây ra sự xuất hiện của polyp dây thanh quản.
Trào ngược thanh quản hầu và hen suyễn
Ở 40%-80% bệnh nhân hen suyễn, nội soi thanh quản cũng phát hiện bệnh trào ngược thanh quản hầu LPRD. Ngày càng có nhiều người tin rằng viêm xoang và hen suyễn có thể xảy ra đồng thời, nhưng các triệu chứng hen suyễn do LPRD gây ra thường bị bỏ qua. Do đó, ngoại trừ hen suyễn và/hoặc viêm mũi dị ứng, phát hiện bằng đầu dò pH được khuyến nghị để chẩn đoán bệnh nhân LPRD. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc chủ vận beta đã trở nên khả thi. Trào ngược thanh quản có thể được gây ra bằng cách giảm lực co bóp của cơ thắt thực quản dưới (LES). Các nghiên cứu về điều này không nhất quán. Một số nghiên cứu cho rằng hen suyễn nặng có thể làm trầm trọng thêm LPRD, nhưng tỷ lệ mắc LPRD tương tự ở trẻ em bị hen suyễn. Dựa trên mức độ nghiên cứu hiện tại, tính khả thi của việc điều trị đồng thời cần được xem xét trong tương lai vì thực tế là LPRD và hen suyễn thường xảy ra cùng nhau.
Tài liệu tham khảo
1. Ford CN. Evaluation and management of laryngopharyngeal reflux. JAMA. 2005;294:1534-1540.
2. Hamilton NJI, Wilcock J, Hannan SA. A lump in the throat: laryngopharyngeal reflux. BMJ. 2020;371:m4091.
3. Cui N, Dai T, Liu Y, Wang YY, Lin JY, Zheng QF, Zhu DD, Zhu XW. Laryngopharyngeal reflux disease: Updated examination of mechanisms, pathophysiology, treatment, and association with gastroesophageal reflux disease. World J Gastroenterol 2024; 30(16): 2209-2219