Bệnh trào ngược thanh quản hầu đã trở thành gánh nặng cho xã hội trong những năm gần đây. Người ta phát hiện ra rằng 15% bệnh nhân ngoại trú khoa tai mũi họng bị trào ngược thanh quản.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Trong một nghiên cứu, 50% bệnh nhân bị rối loạn thanh quản và giọng nói được chẩn đoán mắc bệnh trào ngược thanh quản hầu thông qua theo dõi pH bằng đầu dò kép 24 giờ. Mặc dù trào ngược thanh quản hầu (LPRD) đã dần phát triển trong những năm gần đây, nhưng tỷ lệ lưu hành của nó đã trở nên rõ ràng hơn trong thập kỷ này. Bệnh nhân mắc trào ngược thanh quản hầu gặp phải các biểu hiện lâm sàng nghiêm trọng có thể có gánh nặng về mặt sinh lý và tâm lý gia tăng, chất lượng cuộc sống và trạng thái cảm xúc bị suy giảm. Trào ngược thanh quản hầu được coi là biểu hiện ngoài thực quản của bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD).
Điều trị bằng thuốc trong trào ngược thanh quản hầu
Can thiệp thường quy – điều chỉnh hành vi cuộc sống và chế độ ăn uống Hành vi lối sống và thói quen ăn uống của bệnh nhân có thể được điều chỉnh để cải thiện tối đa các triệu chứng trào ngược thanh quản hầu. Những bệnh nhân tuân theo các khuyến nghị về chế độ ăn uống và lối sống có sự cải thiện đáng kể về RSI so với những bệnh nhân không tuân theo.
Trong một nghiên cứu hồi cứu, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những bệnh nhân mắc trào ngược thanh quản hầu dùng thuốc chống trào ngược và thực hiện các biện pháp thay đổi hành vi đã cải thiện đáng kể điểm RSI của họ (trung bình 32 ngày kể từ lần theo dõi đầu tiên), trong khi điểm RSI của những bệnh nhân trong nhóm đối chứng chỉ dùng thuốc chống trào ngược (trung bình 62 ngày kể từ lần theo dõi đầu tiên) không cải thiện đáng kể.
Thói quen lối sống được khuyến nghị bao gồm: mặc quần áo rộng rãi hàng ngày; đứng thẳng nhất có thể trong 30 phút sau khi ăn; không ăn hoặc uống 2–3 giờ trước khi đi ngủ; nhai kẹo cao su để tăng tiết nước bọt; kiểm soát huyết áp; cai thuốc lá; ăn chậm; tránh nói chuyện trong khi ăn; tránh các loại thuốc như aspirin, progesterone, corticosteroid và thuốc chống viêm không steroid cũng như đồ chiên và các sản phẩm từ động vật béo như thịt gà/cá và thịt.
Điều trị bằng thuốc
Không có phương pháp điều trị đáng tin cậy nào cho trào ngược thanh quản hầu vì cơ chế bệnh sinh của nó chưa rõ ràng. Để nghiên cứu nguyên nhân gây ra trào ngược thanh quản hầu, cần phải xem xét ảnh hưởng của các yếu tố bản thân và môi trường. Các PPI ức chế axit hiện là loại thuốc chính được sử dụng để điều trị trào ngược thanh quản hầu và phù hợp với bệnh nhân trào ngược thanh quản hầu có các triệu chứng GERD. PPI kết hợp với thuốc điều trị tiêu hóa là phương pháp điều trị lâm sàng phổ biến nhất cho trào ngược thanh quản hầu và được khuyến cáo dùng trong ít nhất 8 tuần. PPI có thể ức chế tiết axit dạ dày, điều chỉnh hoạt động của pepsin, làm tổn thương niêm mạc họng và cuối cùng đạt được mục tiêu điều trị các tổn thương và làm giảm các triệu chứng.
Vai trò của thuốc ức chế bơm Proton (PPI)
Một số nhà phân tích cho rằng thuốc ức chế bơm Proton (PPI) dùng hai lần mỗi ngày là lựa chọn tốt nhất để điều trị căn bệnh này. Do đó, nghiên cứu về cơ chế bệnh sinh của trào ngược thanh quản hầu đã trở thành trọng tâm nghiên cứu trong và ngoài nước. Một nghiên cứu đa trung tâm gần đây phát hiện ra rằng những bệnh nhân có kiểu hình khác nhau, chẳng hạn như không có trào ngược thanh quản hầu hoặc viêm thực quản trào ngược, LPRD/GERD có thoát vị hoành, ho phản xạ, trào ngược thanh quản hầu có Viêm thực quản trào ngược nhẹ, v.v. , đáp ứng tốt nhất với thuốc ức chế bơm Proton. Tiếp theo là trào ngược thanh quản hầu có trào ngược nhẹ và ho do trào ngược. Do đó, người ta suy đoán rằng phân loại dựa trên kiểu hình có thể thuận lợi hơn trong việc ghép bệnh nhân và các phương pháp điều trị tương ứng.
Trào ngược thực quản-họng có thể không hoàn toàn có tính axit
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng thuốc giảm axit có thể không hiệu quả đối với những bệnh nhân bị các biến cố không phải trào ngược axit. Phản ứng hỗn hợp với thuốc ức chế bơm Proton phụ thuộc vào bệnh lý bệnh lý biến chứng tiềm ẩn của họ. Mặc dù điều trị thuốc ức chế bơm Proton theo kinh nghiệm không thành công, xét nghiệm MI-pH 24 giờ vẫn được coi là cần thiết. Nếu trào ngược axit đáng kể xảy ra, chế độ PPI cần được tối ưu hóa, ví dụ, bằng cách tăng liều, kéo dài thời gian điều trị và điều chỉnh thời gian dùng thuốc.
Bệnh nhân bị trào ngược axit không đáp ứng với thuốc ức chế bơm Proton có thể thử chuyển sang thuốc chẹn axit cạnh tranh kali. Thuốc đối kháng thụ thể H2 thường được sử dụng trong điều trị LPRD. Do thời gian tác dụng của thuốc ngắn nên hiệu quả ức chế axit thấp hơn và tình trạng của nó thấp hơn một chút so với thuốc ức chế bơm Proton. Nghiên cứu phát hiện ra rằng 51 phần trăm và 54 phần trăm bệnh nhân dùng thuốc chống trào ngược dạ dày thực quản uống 20 mg omeprazole và 20 mg famotidine vào ban đêm đã giảm các triệu chứng. Tám mươi ba phần trăm bệnh nhân cải thiện sau khi uống 20 mg omeprazole vào ban đêm.
Vai trò của Alginate
Alginate là một loại thuốc uống, nó ngăn ngừa trào ngược axit dạ dày hoặc các chất không phải axit bằng cách tạo ra một rào cản cơ học nhớt trên bề mặt của các chất trong dạ dày, cuối cùng làm giảm sự tiếp xúc của các chất trong dạ dày với thực quản hoặc hầu họng. Nó có tác dụng bất kể trào ngược là có tính axit hay không có tính axit. Ngoài ra, alginate ức chế pepsin và muối mật. Alginate cũng cải thiện các triệu chứng ở những bệnh nhân mắc LPRD. Trong một thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên, những bệnh nhân được điều trị bằng alginate cho thấy sự cải thiện đáng kể về các triệu chứng sau 2, 4 và 6 tháng điều trị.
Vai trò của Baclofen
Baclofen có thể ức chế sự giãn cơ LES và ngăn ngừa trào ngược axit và không axit. Trong một nghiên cứu, Baclofen được phát hiện có tác dụng làm giảm đáng kể thời gian trào ngược, tỷ lệ mắc GER và tỷ lệ giãn cơ vòng thực quản dưới (LES) so với giả dược. Xét đến các cơ chế hoạt động khác nhau của các chất trào ngược trong LPRD, nhiều chất đối kháng thụ thể và chất ức chế enzym đã nổi lên như những chất ức chế mới, chẳng hạn như chất ức chế trypsin, chất đối kháng thụ thể hoạt hóa protease 2 (PAR-2), chất ức chế pepsin hoặc chất đối kháng thụ thể, chất đối kháng NF-κB, chất đối kháng TRPV1 và chất ức chế MMP.
Hossain cho rằng PAR-2 có thể đóng vai trò quan trọng trong các triệu chứng ợ nóng chưa được giải quyết sau khi điều trị bằng PPI. Các chất đối kháng TRPV1 và PAR-2 có tiềm năng trở thành tác nhân mục tiêu để cải thiện chứng ợ nóng và đau do LPRD gây ra. Yoshida và cộng sự phát hiện ra rằng chất ức chế MEK và chất ức chế p38 làm giảm tiết IL-6 hoặc IL-8 thông qua con đường truyền tín hiệu MAPK, do đó làm giảm viêm thực quản và đạt được mục tiêu điều trị LPRD.
Tài liệu tham khảo
1. Ford CN. Evaluation and management of laryngopharyngeal reflux. JAMA. 2005;294:1534-1540.
2. Hamilton NJI, Wilcock J, Hannan SA. A lump in the throat: laryngopharyngeal reflux. BMJ. 2020;371:m4091.
3. Cui N, Dai T, Liu Y, Wang YY, Lin JY, Zheng QF, Zhu DD, Zhu XW. Laryngopharyngeal reflux disease: Updated examination of mechanisms, pathophysiology, treatment, and association with gastroesophageal reflux disease. World J Gastroenterol 2024; 30(16): 2209-2219