Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Trào ngược thanh quản được định nghĩa là tình trạng trào ngược các chất trong dạ dày vào thanh quản và hầu. Một số lượng lớn dữ liệu cho thấy sự phổ biến ngày càng tăng của các triệu chứng thanh quản ở bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản.
1. Giới thiệu
Trào ngược thanh quản (LPR ) được định nghĩa là sự trào ngược của thức ăn trong dạ dày vào thanh quản và hầu. Theo Hội nghị Đồng thuận Montreal, các biểu hiện của bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) đã được phân loại thành hội chứng thực quản hoặc ngoài thực quản và trong số những hội chứng sau, sự tồn tại của mối liên quan giữa trào ngược thanh quản và bệnh trào ngược dạ dày thực quản đã được xác lập.
Trào ngược thanh quản có thể được biểu hiện bằng các triệu chứng ở thanh quản như ho, đau họng, khàn tiếng, khó thở và nuốt nghẹn, cũng như các dấu hiệu kích ứng thanh quản khi soi thanh quản . Các triệu chứng về thanh quản ngày càng được các bác sĩ đa khoa, bác sĩ chuyên khoa phổi và bác sĩ phẫu thuật tai mũi họng (ENT) thừa nhận. Đặc biệt, có một số lượng lớn dữ liệu về tỷ lệ ngày càng tăng của các triệu chứng thanh quản ở 60% bệnh nhân bệnh trào ngược dạ dày thực quản.
Ngoài ra, một số nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho rằng bệnh trào ngược dạ dày thực quản, cũng như hút thuốc và sử dụng rượu, là những yếu tố nguy cơ gây ung thư thanh . Theo Hội nghị Đồng thuận Montreal, một số vấn đề quan trọng đã được nhấn mạnh, như sau:
- Sự hiếm hoi của các hội chứng ngoài thực quản xảy ra riêng lẻ mà không có biểu hiện đồng thời với các triệu chứng bệnh trào ngược dạ dày thực quản điển hình (tức là ợ chua và nôn trớ);
- Hội chứng ngoài thực quản thường đa yếu tố với bệnh trào ngược dạ dày thực quản là một trong một số yếu tố đồng yếu tố tiềm ẩn làm trầm trọng thêm;
- Dữ liệu hỗ trợ hiệu quả có lợi của điều trị trào ngược đối với hội chứng ngoài thực quản còn yếu.
Sau đó, hướng dẫn của Hiệp hội Tiêu hóa Hoa Kỳ về bệnh trào ngược dạ dày thực quản khuyến cáo không nên sử dụng liệu pháp ức chế axit để điều trị cấp tính cho những bệnh nhân có hội chứng bệnh trào ngược dạ dày thực quản ngoài thực quản (viêm thanh quản, hen suyễn) khi không có các triệu chứng bệnh trào ngược dạ dày thực quản điển hình .
2. Cơ chế của trào ngược thanh quản
Các cơ chế cụ thể liên quan đến trào ngược dẫn đến các triệu chứng và dấu hiệu của thanh quản hiện vẫn chưa được biết rõ. Chỉ riêng tính axit của dịch vị có thể gây tổn thương mô ở đường hô hấp trên, nhưng một số nghiên cứu đã chứng minh rằng đây không phải là yếu tố căn nguyên duy nhất liên quan đến cơ chế bệnh sinh của bệnh trào ngược thanh quản .
Thật vậy, gần đây, Pearson và cộng sự nhấn mạnh rằng, mặc dù axit có thể được kiểm soát bằng liệu pháp ức chế bơm proton (PPI), tất cả các yếu tố gây hại khác (ví dụ như pepsin, muối mật, vi khuẩn và các enzym phân giải protein của tuyến tụy) vẫn có khả năng gây hại khi điều trị PPI và có thể làm tăng khả năng gây hại của chúng. Đặc biệt, pepsin có thể làm hỏng tất cả các mô ngoài dạ dày ở độ pH lên đến 6. Đáng lưu ý, Johnston và cộng sự đã chỉ ra rằng mức độ pepsin có thể phát hiện được vẫn còn trong biểu mô thanh quản sau một sự kiện trào ngược . Các tác giả tương tự đã mô tả rằng pepsin được hấp thụ bởi các tế bào biểu mô thanh quản bằng quá trình nội bào qua trung gian thụ thể , do đó nó có thể đại diện cho một cơ chế mới, bên cạnh hoạt động phân giải protein đơn thuần, theo đó pepsin có thể gây ra tổn thương tế bào liên quan đến bệnh trào ngược dạ dày thực quản độc lập với độ pH của chất trào ngược.
3. Khó khăn trong chẩn đoán bệnh trào ngược thanh quản
Cho đến nay, việc chẩn đoán trào ngược thanh quản là một nhiệm vụ rất khó khăn và vẫn còn một số tranh cãi về cách xác nhận trào ngược thanh quản. Các phát hiện qua nội soi thanh quản, đặc biệt là phù nề và sung huyết, thường được sử dụng để chẩn đoán trào ngược thanh quản bởi các bác sĩ phẫu thuật tai mũi họng. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng, trong một nghiên cứu tiền cứu được thực hiện tốt, nội soi thanh quản cho thấy một hoặc nhiều dấu hiệu kích ứng thanh quản ở hơn 80% đối chứng khỏe mạnh. Hơn nữa, người ta đã chứng minh rằng đánh giá lâm sàng chính xác về trào ngược thanh quản có thể khó khăn vì các phát hiện thực thể về thanh quản không thể được xác định một cách đáng tin cậy từ bác sĩ lâm sàng đến bác sĩ lâm sàng, và sự thay đổi như vậy làm cho chẩn đoán chính xác qua nội soi thanh quản của trào ngược thanh quản rất chủ. Độ nhạy và độ đặc hiệu của việc theo dõi pH lưu động như một phương tiện để chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở bệnh nhân có các triệu chứng trào ngược ngoài thực quản đã được thử. Hơn nữa, độ nhạy của việc theo dõi hai đầu dò (thực quản và hầu họng) trong 24 giờ dao động từ 50% đến 80% .
4. Vai trò của kỹ thuật đo áp lực thực quản và theo dõi pH thực quản (MII-pH)
Gần đây, tính khả dụng của trở kháng trong lòng ống đa kênh (đo áp lực thực quản) và theo dõi pH thực quản (MII-pH) dường như cho thấy hiệu quả tốt hơn trong việc chẩn đoán các biểu hiện ngoài thực quản của bệnh trào ngược dạ dày thực quản nhờ khả năng đánh giá trào ngược axit và các thành phần không acid khác trong dạ dày.
Tuy nhiên, độ nhạy và độ đặc hiệu kém của tất cả các xét nghiệm chẩn đoán trào ngược thanh quản hiện có đã được nhấn mạnh bởi một số bài báo tổng quan. Trong một quần thể bệnh nhân soi thanh quản phát hiện trào ngược thanh quản, nhiều nghiên cứu cho thấy đo pH thực quản xác nhận chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở dưới 40% bệnh nhân, do đó làm nổi bật vấn đề quan trọng của các triệu chứng không đặc hiệu và kết quả nội soi thanh quản của trào ngược thanh quản.
Các kỹ thuật chẩn đoán mới đầy hứa hẹn đã được phát triển cho các hội chứng trào ngược ngoài thực quản, đặc biệt là xét nghiệm pepsin miễn dịch (Peptest TM ), được chứng minh là một công cụ nhanh, nhạy và đặc hiệu, và một ống thông đo pH hầu họng (được sản xuất bởi Restech, San Diego, CA, Hoa Kỳ) mà nghiên cứu gần đây đã ghi nhận là thiết bị có độ nhạy cao và xâm lấn tối thiểu để phát hiện chất lỏng hoặc hơi của axit trào ngược ở vùng sau hầu họng . Tuy nhiên, dữ liệu hạn chế về độ chính xác chẩn đoán và ứng dụng lâm sàng tiềm năng của chúng có sẵn.
5. Béo phì và bệnh trào ngược thanh quản
Tỷ lệ béo phì ở các nước phương Tây đã gia tăng đáng kể , và điều này xảy ra đồng thời với sự gia tăng số lượng bệnh nhân mắc bệnh trào ngược dạ dày thanh quản. Nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rõ ràng mối liên quan giữa béo phì và bệnh trào ngược dạ dày thanh quản và các cuộc điều tra hỗ trợ mối quan hệ hợp lý về mặt sinh học giữa béo phì và bệnh trào ngược dạ dày thanh quản
Đặc biệt, các nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể cao hơn (BMI) và bệnh trào ngược dạ dày thanh quản và cả béo phì (BMI> 30 kg / m 2 ) và thừa cân (BMI 25–30 kg / m 2 ) đều liên quan đến bệnh trào ngược dạ dày thanh quản. Ảnh hưởng của BMI đến sự xuất hiện bệnh trào ngược dạ dày thanh quản dường như không phụ thuộc vào tổng lượng calo, lượng chất xơ, trái cây và rau quả, hoặc các chất dinh dưỡng vĩ mô hoặc vi lượng khác.
6. Vai trò của chỗ nối thực quản – dạ dày
Béo phì được cho là làm thay đổi hình thái và chức năng của chỗ nối thực quản – dạ dày (EGJ). Thật vậy, béo phì tạo ra sự gián đoạn cơ học của chỗ nối thực quản – dạ dày bằng cách thúc đẩy sự phân tách theo trục giữa cơ thắt thực quản dưới (cơ vòng thực quản dưới ) và cơ hoành bên ngoài. Sự kém hiệu quả của cơ vòng thực quản dưới cũng đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân béo phì và trong số những bệnh nhân béo phì mắc bệnh, tiếp xúc với axit thực quản cao hơn có liên quan đáng kể với áp suất cơ vòng thực quản dưới thấp hơn.
7. Vai trò của giảm cân
Các nghiên cứu quan sát trên bệnh nhân thừa cân và béo phì cho thấy giảm cân dẫn đến cải thiện các triệu chứng bệnh trào ngược dạ dày thanh quản. Hơn nữa, các triệu chứng trào ngược đã được chứng minh là trầm trọng hơn hoặc cải thiện theo thời gian đồng thời với việc tăng hoặc giảm cân, tương ứng. Nghiên cứu HUNT cho thấy rằng, trong số những người có các triệu chứng liên quan đến bệnh trào ngược dạ dày thực quản, mức giảm cao hơn 3,5 đơn vị BMI có liên quan đến việc giảm hoặc ngừng sử dụng thuốc chống trào ngược hàng tuần. Mặt khác, liệu việc giảm cân có thể cải thiện các biểu hiện chủ quan hay khách quan của trào ngược hay không vẫn còn gây tranh cãi. Hơn nữa, có rất ít dữ liệu để xác định xem liệu giảm cân có thể cải thiện các triệu chứng liên quan đến bệnh trào ngược dạ dày thực quản như trào ngược thanh quản hay không.
8. Kết luận
Việc quản lý trào ngược thanh quản có thể được chia thành điều chỉnh lối sống, điều trị nội khoa và / hoặc phẫu thuật. Thay đổi hành vi và điều chỉnh lối sống được coi là phương pháp điều trị đầu tay với khả năng tác dụng phụ thấp nhất. Giảm cân, cai thuốc lá, tránh rượu, thay đổi thói quen ăn uống, và kê cao đầu khi ngủ cần được khuyến nghị cho bệnh nhân. Đối với liệu pháp y tế, hiện tại, việc điều trị tập trung vào việc tăng độ pH của chất trào ngược, do đó, nên bắt đầu với PPIs hai lần mỗi ngày trong khoảng thời gian 8-12 tuần. Những bệnh nhân chịu đựng có bằng chứng khách quan (theo dõi trào ngược) của trào ngược đang diễn ra là nguyên nhân của các triệu chứng nên được xem xét các liệu pháp thay thế, chẳng hạn như máy điều chỉnh cơn đau nội tạng hoặc phẫu thuật nội soi chống trào ngược.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
- Irene Martinucci, Nicola de Bortoli, Optimal treatment of laryngopharyngeal reflux disease, Ther Adv Chronic Dis. 2013 Nov; 4(6): 287–301.
- Altman K., Prufer N., Vaezi M. (2011) A review of clinical practice guidelines for reflux disease: toward creating a clinical protocol for the otolaryngologist. Laryngoscope 121: 717–723 [PubMed] [Google Scholar]
- Anderson J., Jhaveri M. (2010) Reductions in medications with substantial weight loss with behavioral intervention. Curr Clin Pharmacol 5: 232–238 [PubMed] [Google Scholar]
- Bardhan K., Strugala V., Dettmar P. (2012) Reflux revisited: advancing the role of pepsin. Int J Otolaryngol 2012: 646901. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]