Ngày càng có nhiều nghiên cứu, bao gồm các nghiên cứu quan sát, hiện đang điều tra mối quan hệ giữa PPI và nguy cơ mắc bệnh viêm ruột. Tuy nhiên, các kết luận vẫn còn gây tranh cãi.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Tổng quan dược lí của các thuốc ức chế bơm proton
Thuốc ức chế bơm proton (PPI) là các bazơ yếu không bền với axit, thường được đóng gói trong hệ thống phân phối bao tan trong ruột để đảm bảo rằng chúng được giải phóng ở ruột chứ không phải ở dạ dày. Thời gian bán hủy trong huyết thanh của PPI giải phóng đơn chỉ là 1-2 giờ, ngoại trừ ilaprazole, có thời gian bán hủy là 8-10 giờ. PPI chủ yếu bị phân hủy thông qua các enzym cytochrom P450 (CYP) ở gan.
Con đường CYP2C19 chiếm ưu thế trong quá trình chuyển hóa PPI nói chung, mặc dù các PPI khác nhau có sự khác biệt nhỏ. Điều này có thể dẫn đến hiệu quả thuốc và tương tác thuốc-thuốc khác nhau. Omeprazole và đồng phân lập thể esomeprazole của nó hầu như được chuyển hóa hoàn toàn bởi CYP2C19.
Rabeprazole và lansoprazole/dexlansoprazole cũng được chuyển hóa bởi CYP2C19; tuy nhiên, chúng cũng thể hiện ái lực đáng kể với CYP3A4. Pantoprazole chủ yếu được chuyển hóa bởi CYP2C19 O -demethylation và liên hợp sulfat, trong khi ilaprazole chủ yếu được chuyển hóa bởi CYP3A4/5.
Khi những tác động này gây ra nồng độ dưới mức điều trị, chúng có thể góp phần vào nguy cơ thất bại điều trị. Ngược lại, nếu chúng tạo ra nồng độ trên mức điều trị kéo dài, chúng có thể dẫn đến các tác dụng phụ.
Tác dụng của PPI đối với nguy cơ mắc bệnh viêm ruột
Năm 2006, Aberra và cộng sự đề xuất rằng việc ức chế axit dạ dày có thể làm tăng nguy cơ bùng phát ở những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột. Mặc dù nghiên cứu chéo ca này chỉ được công bố dưới dạng tóm tắt, nhưng nó cho thấy tác động đáng kể của việc sử dụng rộng rãi PPI đối với sự phát triển của viêm loét đại tràng. Ngày càng có nhiều nghiên cứu, bao gồm các nghiên cứu quan sát, hiện đang điều tra mối quan hệ giữa PPI và nguy cơ mắc bệnh viêm ruột. Tuy nhiên, các kết luận vẫn còn gây tranh cãi.
Một nghiên cứu ca chứng lồng nhau được tiến hành vào năm 2019 bao gồm 285 trường hợp mắc bệnh viêm ruột ở trẻ em mới trong độ tuổi ≤ 21 và 4 nhóm chứng phù hợp từ năm 1996 đến năm 2016. Nghiên cứu đã khám phá mối quan hệ giữa liệu pháp ức chế axit và nguy cơ phát triển bệnh viêm ruột ở trẻ em.
Tính toán mô hình hồi quy logistic cho thấy việc sử dụng PPI trong giai đoạn đầu đời có tương quan đáng kể với sự gia tăng nguy cơ phát triển bệnh viêm ruột sau đó [tỷ lệ chênh lệch đã điều chỉnh (OR) = 3,6, khoảng tin cậy 95% (CI): 1,1-11,7]. Tuy nhiên, mối liên quan giữa thuốc đối kháng thụ thể histamine-2 (H 2 RA) và bệnh viêm ruột là yếu (OR đã điều chỉnh = 1,6, 95% CI: 0,7-3,7), mặc dù có chỉ định tương tự đối với PPI và H 2 RA.
Tương tự như vậy, một nghiên cứu khác trên quy mô lớn trên 647407 cá nhân từ Nghiên cứu sức khỏe y tá và Ngân hàng sinh học Vương quốc Anh.
Họ chứng minh rằng những người sử dụng PPI thường xuyên có nguy cơ mắc bệnh viêm ruột cao hơn so với những người không sử dụng [tỷ lệ nguy cơ (HR) = 1,42, 95%CI: 1,22-1,65], trong đó việc sử dụng PPI có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh viêm ruột cao hơn so với việc sử dụng H 2 RA (HR = 1,38, 95%CI: 1,16-1,65).
Các tác giả đã điều chỉnh các yếu tố lối sống, chỉ định PPI, bệnh đi kèm và các loại thuốc khác để giảm thiểu sự nhiễu loạn và sai lệch.
Một nghiên cứu dựa trên dân số bao gồm 45586150 bệnh nhân và sử dụng phân tích hồi quy đa biến cho thấy mối liên quan đáng kể giữa việc sử dụng PPI và nguy cơ mắc viêm loét đại tràng và bệnh Crohn, sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy cơ phổ biến, Shastri và cộng sự đã tiến hành phân tích tổng hợp tám nghiên cứu quan sát bao gồm 157758 người tham gia để đánh giá việc sử dụng PPI và nguy cơ mắc bệnh viêm ruột.
Họ phát hiện ra rằng những người dùng PPI có nguy cơ mắc bệnh viêm ruột cao hơn đáng kể (OR điều chỉnh = 2,43, 95% CI: 1,18-5,02). Phân tích phân nhóm cho thấy viêm đại tràng collagen (CC) và viêm đại tràng lymphocytic (LC) có thể được coi là các dạng bệnh viêm ruột giảm nhẹ.
Mối tương quan đáng kể giữa phơi nhiễm PPI và nguy cơ mắc CC và LC lần lượt là 4,73 (95% CI: 1,99-11,22) và 3,77 (95% CI: 2,91-4,87). Tất cả các bằng chứng được trình bày ở trên đều ủng hộ mạnh mẽ mối liên hệ đáng kể giữa việc sử dụng PPI và nguy cơ phát triển bệnh viêm ruột.
Vẫn còn một số quan điểm khác nhau về PPI và bệnh viêm ruột
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu lại có quan điểm khác. Abrahami và cộng sự lập luận rằng nghiên cứu quan sát trước đó có thể có những thiếu sót về phương pháp dẫn đến sai lệch, điều này có khả năng làm thay đổi kết luận. Abrahami và cộng sự đã nghiên cứu 1498416 cá nhân bắt đầu dùng PPI và 322474 cá nhân bắt đầu dùng H 2 RA từ năm 1990 đến năm 2018.
Để giải quyết cụ thể bất kỳ sai lệch tiền bệnh nào, họ đã tiến hành phân tích sự kiện sớm trong tối đa 2 năm sau khi tham gia nhóm và lặp lại phân tích sau độ trễ 2 năm kể từ khi tham gia nhóm để phân tích sự kiện muộn.
Phân tích sự kiện sớm cho thấy việc sử dụng PPI có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh viêm ruột trong vòng 2 năm đầu tiên bắt đầu điều trị so với nguy cơ quan sát thấy với H 2 RA (HR = 1,39, 95%CI: 1,14-1,69). Ngược lại, phân tích sự kiện muộn không cho thấy mối liên hệ đáng kể giữa việc sử dụng PPI và tỷ lệ mắc bệnh viêm ruột (HR = 1,05, 95%CI: 0,90-1,22).
Mối quan hệ thời gian-đáp ứng và liều lượng-đáp ứng trong bệnh viêm ruột
Phân tích thứ hai liên quan đến mối quan hệ thời gian-đáp ứng và liều lượng-đáp ứng, tác dụng đặc hiệu theo loại PPI, phân tích sửa đổi biện pháp tác dụng theo độ tuổi và tác động của việc hút thuốc không mang lại kết quả đáng kể. Các kết quả của phân tích độ nhạy phù hợp với các kết quả của phân tích chính.
Do đó, Abrahami và cộng sự kết luận rằng PPI không liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh viêm ruột sau khi tính đến sai lệch tiền bệnh. Singh và cộng sự đã nghiên cứu 5920 cá nhân để điều tra mối liên hệ giữa việc sử dụng PPI và chẩn đoán bệnh viêm ruột. Họ phát hiện ra rằng những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột có tỷ lệ sử dụng PPI cao hơn, đạt 17% trong vòng 1 năm trước khi chẩn đoán bệnh viêm ruột [nguy cơ tương đối (RR) = 3,08, 95%CI: 2,9-3,3].
Do đó, họ cho rằng việc sử dụng PPI có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm ruột, hoặc bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột có thể gặp nhiều vấn đề về đường tiêu hóa trên hơn dẫn đến việc sử dụng PPI nhiều hơn, hoặc PPI có thể được kê đơn để kiểm soát một số triệu chứng của bệnh viêm ruột, bất kể có cần thiết về mặt lâm sàng hay không.
Kết luận
Các kết luận rút ra từ các nghiên cứu hiện tại không hoàn toàn nhất quán. Lý do cho những khác biệt này không hoàn toàn rõ ràng, mặc dù có ý kiến cho rằng những khác biệt này có thể phát sinh do sự khác biệt trong các phương pháp nghiên cứu được áp dụng, quy mô mẫu và các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn khác.
Tuy nhiên, cần phải nhắc nhở các bác sĩ lâm sàng thận trọng khi kê đơn PPI, vì chúng có thể liên quan đến nguy cơ mắc bệnh viêm ruột. Mối quan hệ này cần được xác nhận thêm thông qua các nghiên cứu nghiêm ngặt, quy mô lớn, đa trung tâm và có triển vọng.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
1. GBD 2017 Inflammatory Bowel Disease Collaborators. The global, regional, and national burden of inflammatory bowel disease in 195 countries and territories, 1990-2017: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2017. Lancet Gastroenterol Hepatol. 2020;5:17–30.
2. Ng SC, Shi HY, Hamidi N, Underwood FE, Tang W, Benchimol EI, Panaccione R, Ghosh S, Wu JCY, Chan FKL, Sung JJY, Kaplan GG. Worldwide incidence and prevalence of inflammatory bowel disease in the 21st century: a systematic review of population-based studies. Lancet. 2017;390:2769–2778.
3. Liang Y, Meng Z, Ding XL, Jiang M. Effects of proton pump inhibitors on inflammatory bowel disease: An updated review. World J Gastroenterol. 2024;30:2751-2762. [PubMed] [DOI] [Cited in This Article: 10]