Viêm dạ dày liên quan đến chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch có phổ biến?

Thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (ICI) được sử dụng rộng rãi do hiệu quả của chúng trong điều trị nhiều loại khối u. Các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch (irAE) được định nghĩa là các tác dụng bất lợi do điều trị thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch gây ra. IrAE đường tiêu hóa là một loại irAE phổ biến được đặc trưng bởi các tác dụng phụ ở đường ruột, chẳng hạn như tiêu chảy và viêm đại tràng, có thể dẫn đến việc ngừng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch. 

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Mặc dù viêm dạ dày irAE hiếm khi được báo cáo, nhưng nó có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như xuất huyết dạ dày. Hơn nữa, viêm dạ dày irAE thường khó phát hiện sớm do các triệu chứng đa dạng của nó. Mặc dù hormone steroid và thuốc ức chế miễn dịch thường được sử dụng để đảo ngược irAE, nhưng phác đồ và liều lượng tốt nhất cho viêm dạ dày irAE vẫn chưa chắc chắn. Ngoài ra, cần cân nhắc đến nguy cơ tái phát viêm dạ dày irAE sau khi tái sử dụng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch.

Tỷ lệ bệnh, thời gian khởi phát và mức độ nghiêm trọng

Nhìn chung, GI-irAE xảy ra ở khoảng 6,5% đến 8,4% bệnh nhân dùng liệu pháp thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch đơn trị. Viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch xảy ra ít hơn. Một số nghiên cứu hồi cứu dựa trên mẫu lớn đã báo cáo tỷ lệ mắc bệnh khoảng 0,35%-1,46%. 

Thời gian khởi phát rất khác nhau, với phạm vi rộng từ 2 tuần đến 156 tuần và thời gian trung bình được tính là 29,3 tuần. Tỷ lệ GI-irAE của liệu pháp kết hợp thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch xảy ra ở 6-8 tuần sau khi bắt đầu điều trị thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, sớm hơn nhiều so với liệu pháp thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch đơn trị. Hơn nữa, liệu pháp kết hợp với thuốc kháng PD1/PD-L1 và thuốc kháng CTLA-4 dẫn đến tỷ lệ GI-irAE cao hơn so với liệu pháp đơn trị bằng thuốc kháng PD1/PD-L1 hoặc thuốc kháng CTLA-4 (lần lượt là 15% so với 4 % và 12%). Cũng có mối liên hệ tích cực giữa việc tăng liều thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của GI-irAE, đặc biệt là trong liệu pháp đơn trị bằng thuốc kháng CTLA-4 và liệu pháp kết hợp thuốc kháng PD1/PD-L1 và thuốc kháng CTLA-4. 

Các mức độ nghiêm trọng của viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch dựa trên Tiêu chuẩn thuật ngữ chung về các biến cố bất lợi (CTCAE). Ở những bệnh nhân bị viêm dạ dày độ 1, các triệu chứng ở đường tiêu hóa trên không rõ ràng và thường được phát hiện một cách vô tình. Viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch ở mức độ CTCAE 2-3 được báo cáo thường xuyên nhất (hơn 75%), đòi hỏi phải ngừng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và can thiệp bằng steroid.

Viêm dạ dày liên quan đến chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch có phổ biến?

Bệnh nhân có tiền sử bệnh đường tiêu hóa có nhiều khả năng phát triển viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch sau liệu pháp miễn dịch

Một nghiên cứu cho thấy trong số 54 bệnh nhân bị viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, mười ba (24%) có tiền sử rối loạn dạ dày thực quản và gan, và chín trong số mười ba người đã từng bị trào ngược dạ dày thực quản. Các loại thuốc trước đây có khả năng gây tổn thương dạ dày nên được đánh giá ở những bệnh nhân bị viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch. Trong tổng số 25 bệnh nhân bị viêm dạ dày liên quan đến thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, 3 (12%) bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc chống viêm không steroid (NSAID) và 11 (44%) bệnh nhân đã được hóa trị, xạ trị hoặc liệu pháp kết hợp. Thời gian khởi phát ngắn hơn là 2,0 tuần đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân này và tất cả họ đều có các tác dụng phụ (AE) độ 2 trở lên cần phải điều trị bằng prednisolone (PSL).

Kết luận 

Viêm dạ dày liên quan đến ICI rất hiếm và nên nghi ngờ ở những bệnh nhân có triệu chứng đường tiêu hóa trên tái phát và có tiền sử điều trị miễn dịch. Áp dụng chiến lược theo dõi chủ động dự kiến sẽ làm giảm tình trạng viêm dạ dày miễn dịch nặng. Cần phải kiểm tra nội soi thực quản dạ dày và sinh thiết để xác nhận viêm dạ dày liên quan đến ICI. Glucocorticoid sớm và đủ có thể cải thiện tiên lượng và khuyến cáo kiểm tra lại nội soi thực quản dạ dày trước khi bắt đầu lại liệu pháp ICI. Hơn nữa, việc quản lý đúng cách các irAE nặng đòi hỏi phản ứng hiệu quả và quyết định thống nhất của các nhóm đa chuyên khoa. Những nỗ lực như vậy sẽ đảm bảo rằng bệnh nhân ung thư được hưởng lợi từ chất lượng chăm sóc cao nhất khi liệu pháp miễn dịch tiếp tục phát triển.

Tài liệu tham khảo 

1.  Yamada K, Sawada T,  et al. Clinical characteristics of gastrointestinal immune-related adverse events of immune checkpoint inhibitors and their association with survival. World J Gastroenterol. 2021;27:7190-7206 

2.  Thapa B, Roopkumar J, Kim AS, Gervaso L, Patil PD, Calabrese C, Khorana AA, Funchain P. Incidence and clinical pattern of immune related adverse effects (irAE) due to immune checkpoint inhibitors (ICI). J Clin Oncol. 2019;37:e14151-e14151.

3. Lin J, Lin ZQ, Zheng SC, Chen Y. Immune checkpoint inhibitor-associated gastritis: Patterns and management. World J Gastroenterol 2024; 30(14): 1941-1948

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe