Bệnh viêm ruột (IBD) có thể là một vấn đề y tế làm thay đổi cuộc sống và lối sống. Hai trong số các phân nhóm chính, tức là Bệnh Crohn và Viêm loét đại tràng được ước tính ảnh hưởng đến hơn 6,8 triệu người trên toàn thế giới với tỷ lệ mắc bệnh khác nhau, từ mức thấp là 1,2/100000 ở một số quốc gia đến mức cao tới 31,2 ở Manitoba, Canada.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Tỷ lệ mắc bệnh tiếp tục gia tăng trên phạm vi toàn cầu và là mối quan tâm nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng. Nguyên nhân nằm ở sự mất cân bằng giữa tín hiệu ủng hộ viêm và chống viêm trong ruột do nhiều yếu tố gây ra và có thể bị ảnh hưởng bởi cơ địa dễ mắc bệnh, kết hợp với tác nhân khởi phát là vi khuẩn hoặc vi-rút.
Nhìn chung, từ 50% đến 60% bệnh nhân ban đầu đáp ứng với liệu pháp điều trị về mặt cải thiện các triệu chứng hoặc giảm mức độ các dấu hiệu sinh học gây viêm. Trong số những bệnh nhân này, ước tính có khoảng 20% đến 30% bệnh nhân thuyên giảm bệnh và trong số những bệnh nhân thuyên giảm bệnh, ít nhất một nửa vẫn tiếp tục thuyên giảm bệnh theo thời gian. Một đánh giá gần đây hơn cho biết rằng tỷ lệ bệnh nhân cao bị mất phản ứng ban đầu với liệu pháp sinh học và 40% bệnh nhân khác bị mất phản ứng thứ phát. Rõ ràng từ những số liệu trên, nguy cơ tái phát bệnh là đáng kể và có thể cần can thiệp ngoài liệu pháp ban đầu.
Ngoài vấn đề tái phát, ngay cả khi được kiểm soát và thuyên giảm đối với các triệu chứng đường ruột, bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột vẫn có các triệu chứng ngoài đường ruột đáng kể như trầm cảm, lo âu, chất lượng cuộc sống kém (QoL) và mệt mỏi. Trong một nghiên cứu, nguy cơ mắc bệnh trầm cảm trong suốt cuộc đời là 40% và nguy cơ phát triển chứng lo âu cao tới 30%.
Những triệu chứng ngoài đường ruột này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn làm tăng tỷ lệ tái phát các triệu chứng đường ruột và cần phải đến cơ sở chăm sóc sức khỏe, làm tăng thêm chi phí. Ở những quốc gia có hạn chế về nguồn lực, nơi việc tiếp cận các cơ sở chăm sóc sức khỏe có thể liên quan đến việc đi lại và chi phí đáng kể, nhiều bệnh nhân thà "cười toe toét và chịu đựng" các triệu chứng đường ruột bổ sung hơn là tìm cách giảm nhẹ hoặc thậm chí thú nhận rằng mình mắc phải chúng.
Các cách tiếp cận khác nhau để kiểm soát các triệu chứng ngoài ruột của bệnh viêm ruột
Trong số nhiều cách tiếp cận khác nhau để kiểm soát các triệu chứng ngoài ruột của IBD, có ba cách đáng chú ý và đáng đề cập đến. Đó là: (1) Vai trò của hoạt động thể chất; (2) vai trò của y học bổ sung như Yoga hoặc liệu pháp âm nhạc như một biện pháp can thiệp y học tâm-thân; và (3) vai trò của việc điều hòa hệ vi khuẩn đường ruột. Tất cả các biện pháp can thiệp này sẽ tương đối ít tốn kém hơn. Cơ chế hoạt động có thể có của các biện pháp can thiệp này có thể là thông qua việc thay đổi sự cân bằng giữa tín hiệu gây viêm và chống viêm trong ruột và các nơi khác trong cơ thể. Một bài báo đã đề xuất: (1) Giảm mỡ nội tạng; (2) tăng sản xuất và giải phóng các cytokine chống viêm từ cơ xương; và (3) giảm các thụ thể giống Toll của tế bào đơn nhân và đại thực bào với việc giảm các cytokine gây viêm do nguyên nhân có lợi với hoạt động thể chất. Các nghiên cứu gần đây về tác động của việc thay đổi hệ vi khuẩn đường ruột đã đưa ra bằng chứng về cách tín hiệu như vậy có thể được thay đổi.
Vai trò của hoạt động thể chất đối với bệnh viêm ruột
Các tác giả đã xem xét thông tin hiện tại về ba phương pháp tiếp cận bổ trợ thay thế này cho bệnh viêm ruột. Có một số đánh giá chi tiết về vai trò của hoạt động thể chất đối với bệnh viêm ruột. Các hướng dẫn cụ thể về việc tập thể dục ở những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột vẫn còn thiếu, mặc dù một nghiên cứu cho rằng những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột nên tham gia vào hoạt động thể chất vừa phải ít nhất ba lần một tuần trong 30 phút mỗi ngày. Cơ sở cho hoạt động thể chất nằm ở thực tế là các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hoạt động thể chất cường độ cao, trái ngược với hoạt động thể chất vừa phải, có tác động rõ rệt đến chức năng đường tiêu hóa và tính toàn vẹn của nội mô cũng như sự di chuyển của các kháng nguyên trên niêm mạc.
Tuy nhiên, không có khả năng hoạt động thể chất cường độ cao sẽ khả thi hoặc được chấp nhận đối với những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột vì nó có thể thúc đẩy các triệu chứng đường ruột, làm trầm trọng thêm tình trạng mệt mỏi hiện có hoặc có thể dẫn đến những cơn đi ngoài không kiểm soát. Do đó, nghiên cứu phải tập trung vào hoạt động thể chất vừa phải hoặc hoạt động thể chất nhẹ đối với những người không thể thực hiện hoạt động vừa phải. Hiệu quả của việc tuân thủ cũng rất quan trọng. Các kết quả đã công bố có xu hướng không có kết luận. Một đánh giá năm 2010 kết luận rằng có cả sự thiếu hụt tài liệu và tính không đồng nhất của các nghiên cứu khiến cho việc đưa ra kết luận chắc chắn về lợi ích của hoạt động thể chất, như một biện pháp bổ sung, trong việc quản lý bệnh viêm ruột trở nên khó khăn. Một đánh giá gần đây hơn kết luận rằng có một mức độ bằng chứng vừa phải ủng hộ những thay đổi về thành phần cơ thể ở bệnh nhân bệnh viêm ruột do tập thể dục.
Một đánh giá khác kết luận rằng các bác sĩ có thể cân nhắc thảo luận về các biện pháp can thiệp hoạt động thể chất trong bệnh viêm ruột trên cơ sở cá nhân đối với các triệu chứng như chất lượng cuộc sống kém, mệt mỏi, trầm cảm hoặc lo lắng vì có một số bằng chứng, cho đến khi có hướng dẫn sau các nghiên cứu sâu hơn. Một đánh giá khác trong khi kết luận rằng hoạt động thể chất cường độ vừa phải đối với người lớn mắc bệnh viêm ruột có lợi cho chứng lo âu, căng thẳng, trầm cảm và chất lượng cuộc sống kém, nó có thể liên quan đến nhiều rào cản đối với việc thực hiện hoạt động thể chất đối với người lớn mắc bệnh viêm ruột và do đó gợi ý một cách tiếp cận thận trọng.
Sử dụng yoga hoặc âm nhạc như thuốc bổ trợ
Phương pháp thứ hai có thể có lợi cho bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột và làm giảm lo âu, căng thẳng, trầm cảm và mệt mỏi là các phương pháp y khoa bổ sung sử dụng yoga hoặc âm nhạc như thuốc bổ trợ. Nghiên cứu đã xác lập được cơ sở khoa học cho phương pháp quản lý bổ sung ngoài liệu pháp y học cổ truyền trong một số bệnh bao gồm căng thẳng, lo âu, trầm cảm , v.v. Cần có các nghiên cứu lớn hơn để xác nhận điều này. Mối liên quan giữa chứng loạn khuẩn đường ruột và bệnh viêm ruột đã được biết đến rộng rãi.
Do đó, một cách tiếp cận thứ ba, ít được nghiên cứu cho đến nay, là ghi lại sự thay đổi trong hệ vi khuẩn đường ruột ở những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột trước và sau khi kiểm soát bằng các loại thuốc thích hợp và theo dõi chúng để xem những người tái phát hoặc có các triệu chứng ngoài tiêu hóa có trải qua những thay đổi mới trong hệ vi khuẩn đường ruột hay không, là hậu quả hoặc là nguyên nhân, đối với các triệu chứng. Nếu được chứng minh, một cách tiếp cận để quản lý có thể bao gồm biện pháp khôi phục hệ vi khuẩn đường ruột về trạng thái bình thường.
Tài liệu tham khảo
1. Correction to Lancet Gastroenterol Hepatol 2020; 5: 908-17. Lancet Gastroenterol Hepatol. 2020;5:e8
2. Blanchard JF, Bernstein CN, Wajda A, Rawsthorne P. Small-area variations and sociodemographic correlates for the incidence of Crohn's disease and ulcerative colitis. Am J Epidemiol. 2001;154:328-335.
3. Ananthakrishnan N. Unresolved conundrum of the role of physical activity in inflammatory bowel disease: What next? World J Gastroenterol 2024; 30(21): 2744