Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Bệnh viêm ruột (IBD) đại diện cho một nhóm các rối loạn viêm mãn tính liên quan đến đại tràng, ruột non (SB) và toàn bộ đường tiêu hóa và bao gồm bệnh Crohn (bệnh Crohn), viêm loét đại tràng (UC) và các thực thể chưa được phân loại .
Chữ viết tắt:
- Bệnh viêm ruột (IBD)
- Bệnh Crohn (bệnh Crohn)
- Ruột non (SB – small bowel)
- Nội soi bằng viên nang (CE)
- DAE: nội soi ruột non có thiết bị hỗ trợ;
- DBE: Nội soi ruột bằng bóng kép;
- SBE: Nội soi ruột non bằng bóng đơn;
1. Tổng quan về bệnh viêm ruột
Bệnh Crohn là một bệnh viêm mãn tính qua trung gian miễn dịch thường liên quan đến hồi tràng và địa , nhưng tại thời điểm chẩn đoán, nó có thể chỉ giới hạn trong ruột non, như gặp ở khoảng 30% bệnh nhân bệnh Crohn, đặc biệt là bệnh nhân trẻ tuổi. Bệnh Crohn ruột non đơn thuần có thể khó chẩn đoán và quản lý vì một số lý do:
Đầu tiên, bệnh Crohn ruột non đơn thuần khó tiếp cận hơn bằng nội soi, dễ bỏ sót chẩn đoán bệnh Crohn ruột non đơn thuần với nội soi thông thường, góp phần làm chậm chẩn đoán như quan sát thấy ở nhiều bệnh nhân bệnh Crohn.
Thứ hai, loét ruột non do nhiễm trùng (chẳng hạn như bệnh lao) hoặc thuốc đôi khi có thể khó phân biệt với bệnh Crohn.
Thứ ba, so với các kiểu hình khác, bệnh Crohn ruột non đơn thuần có liên quan đến tăng nguy cơ tái phát và phát triển nghiêm trọng.
Thứ tư, ung thư ruột non liên quan đến bệnh Crohn ruột non là một vấn đề hiếm gặp nhưng khó vì chỉ một số ít các trường hợp này được chẩn đoán trước mổ và ở giai đoạn sớm.
Cuối cùng, ở nhóm trẻ em, bệnh Crohn ruột non đơn thuần có liên quan đặc biệt về mặt lâm sàng vì tác động tiêu cực của nó đối với tăng trưởng và phát triển ở tuổi dậy thì . Vì vậy, đánh giá khách quan niêm mạc ruột non là điều cần thiết trong việc phân biệt bệnh Crohn với các bệnh ruột khác để đưa ra quyết định điều trị và lập kế hoạch theo dõi.
Nội soi viên nang (CE) và nội soi ruột non có thiết bị hỗ trợ (nội soi ruột non có thiết bị hỗ trợ) đã mở rộng đáng kể khả năng chẩn đoán các bệnh ruột non. Nội soi viên nang cung cấp một xét nghiệm không xâm lấn để hình dung toàn bộ niêm mạc ruột non, có thể hỗ trợ chẩn đoán bệnh Crohn ruột non và theo dõi đáp ứng điều trị. Các hạn chế chính của Nội soi viên nang ở bệnh nhân IBD là độ đặc hiệu thấp, thiếu khả năng điều trị và không có khả năng thực hiện sinh thiết.
2. Nội soi ruột non ở bệnh nhân người lớn đã biết bị bệnh viêm ruột có biến chứng hẹp ống tiêu hóa
Bốn nghiên cứu đánh giá tác động của Nội soi ruột non được hỗ trợ bằng bóng đối với người lớn bị IBD đã biết và có biến chứng.
Mensink và cộng sự đã đánh giá tác động lâm sàng của việc đánh giá ruột non qua nội soi đối với bệnh nhân có bệnh Crohn đã biết và nghi ngờ về lâm sàng của hoạt động ruột non. Họ đã phân tích hồi cứu 52 quy trình nội soi ruột non bóng đơn được thực hiện ở 40 bệnh nhân người lớn. 24 bệnh nhân (60%) có biểu hiện viêm ruột hoạt động về hình ảnh đại thể và 18 người trong số họ (75%) phải chuyển liệu pháp điều trị với cải thiện lâm sàng dai dẳng ở 83% bệnh nhân sau thời gian theo dõi trung bình là 13 tháng. Đặc biệt, trong số 18 bệnh nhân, 11 người dùng liệu pháp kháng TNF, 2 người chuyển từ infliximab sang adalimumab, 1 người dùng liệu pháp steroid, 2 người đã phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột và 2 người đã trải qua thủ thuật nong bóng để giải quyết chỗ hẹp.
Trong nghiên cứu từ Navaneethan và cộng sự, Hệ thống nội soi ruột hỗ trợ bằng bóng được thực hiện ở 43 bệnh nhân người lớn với chẩn đoán xác định về bệnh Crohn có dấu hiệu chính là đánh giá hoạt động và mức độ của bệnh trong bệnh Crohn không thuyên giảm, thiếu máu hoặc xuất huyết tiêu hóa không rõ ràng, xác nhận và điều trị mức độ nghiêm trọng của ruột non được chẩn đoán khi kiểm tra X quang, và đánh giá hoạt động và mức độ của bệnh Crohn ở bệnh nhân sau phẫu thuật. hệ thống nội soi ruột hỗ trợ bằng bóng có tác động đến quản lý lâm sàng của 23 bệnh nhân (53,4%): 18 bệnh nhân (41,8%) bị viêm dạng hoạt động kèm theo vết loét hoặc sẹo loét gây hẹp dẫn đến việc chuyển đổi liệu pháp y tế hoặc phẫu thuật, 5 (11,6%) với chứng hẹp được ghi nhận trong trường hợp vắng mặt các vết loét đang hoạt động đã trải qua nong bằng bóng qua nội soi EBS để điều trị các triệu chứng tắc nghẽn. Nhìn chung, 13 bệnh nhân (30%) yêu cầu phẫu thuật: Hai bệnh nhân là do thiếu các chiến lược điều trị khác, năm bệnh nhân là do thất bại trong điều trị y tế, năm bệnh nhân là do bệnh nhân lựa chọn, và một do thủng ruột sau nội soi ruột hỗ trợ bằng bóng. Cuối cùng, các tác giả nhận thấy rằng tỷ lệ đồng ý giữa CT hoặc MRI ruột và phát hiện bằng hệ thống nội soi ruột hỗ trợ bằng bóng cao hơn (75,6%) ở bệnh nhân bệnh Crohn đã được chẩn đoán.
3. Hiệu quả của nội soi ruột non trong quản lý và điều trị bệnh viêm ruột
Trong nghiên cứu của Rahman và cộng sự, các tác giả đã phân tích kết quả chẩn đoán và tác động lâm sàng của nội soi ruột non bóng kép đối với việc quản lý điều trị 38 bệnh nhân trưởng thành có bệnh Crohn đã biết và nghi ngờ lâm sàng về hoạt động của bệnh ruột non. Trong bối cảnh này, hiệu suất chẩn đoán là 87% (33/38 bệnh nhân), cho thấy bệnh đang hoạt động ở 11 bệnh nhân (29%), 5 bệnh nhân bị tắc nghẽn bệnh Crohn (13%), 3 (8%) có tắc nghẽn chức năng do cố định / ruột bị co thắt, 3 (8%) bị loét nối thông, và 2 (5%) bị loét không đặc hiệu. Kiểm tra nội soi ruột non bóng kép là bình thường trong 9 trường hợp (23,6%). Do đó, nội soi ruột non bóng kép dẫn đến sự thay đổi hướng điều trị lâm sàng cho 82% bệnh nhân mắc bệnh Crohn đã biết. 13 bệnh nhân (34%) cần tăng liều thuốc hoặc chuyển đổi liệu pháp hoặc phẫu thuật, và ba bệnh nhân (8%) được nong chỗ hẹp bằng bóng qua nội soi mà không có bất kỳ biến chứng nào liên quan.
4. Vai trò của nội soi ruột non trong đánh giá các biến chứng của bệnh viêm ruột
Holleran và cộng sự đã đánh giá kết quả chẩn đoán và tác động đến kết quả lâm sàng của việc sử dụng nội soi ruột non bóng đơn cho 39 bệnh nhân có bệnh Crohn ruột non đã được thực hiện. Trong bối cảnh này, hiệu suất chẩn đoán cao hơn đáng kể so với bệnh nhân người lớn nghi ngờ mắc bệnh Crohn (77% so với 39%, P <0,01). Các phát hiện thường xuyên nhất là hẹp hồi tràng hoặc hẹp miệng nối ở 38% và 26%, và viêm hồi tràng hoạt động ở 21% bệnh nhân. SBE có tác động lâm sàng tức thì lên 69% ( n= 33) số bệnh nhân, bao gồm giãn cơ thắt chặt là 27%, điều chỉnh thuốc là 48% và chuyển tuyến để phẫu thuật cắt bỏ là 6%. Theo dõi dài hạn (thời gian trung bình 11 tháng, phạm vi 3-22 tháng), được thực hiện ở 34 bệnh nhân (65%) trong số 52 bệnh nhân, cho thấy sự thay đổi đáng kể trong điểm chỉ số Harvey-Bradshaw trung bình từ 6,6 đến 4,2 sau thủ thuật ( P <0,0001).
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo:
- Fong SC, Irving PM. Distinct management issues with Crohn's disease of the small intestine. Curr Opin Gastroenterol. 2015;31:92-97. [PubMed] [DOI]
- Sauer CG, Kugathasan S. Pediatric inflammatory bowel disease: highlighting pediatric differences in IBD. Med Clin North Am. 2010;94:35-52. [PubMed] [DOI]3. Hall B, Holleran G, McNamara D. Small bowel Crohn's disease: an emerging disease phenotype? Dig Dis. 2015;33:42-51. [PubMed] [DOI]4. Peyrin-Biroulet L, Loftus EV Jr, Colombel JF, Sandborn WJ. The natural history of adult Crohn's disease in population-based cohorts. Am J Gastroenterol. 2010;105:289-297. [PubMed] [DOI]5. Pimentel M, Chang M, Chow EJ, Tabibzadeh S, Kirit-Kiriak V, Targan SR, Lin HC. Identification of a prodromal period in Crohn's disease but not ulcerative colitis. Am J Gastroenterol. 2000;95:3458-3462. [PubMed] [DOI]6. Giovanni Di Nardo, Gianluca Esposito và cộng sự, Enteroscopy in children and adults with inflammatory bowel disease, World J Gastroenterol. Oct 21, 2020; 26(39): 5944-5958