Vai trò của cơ chế tự thực trong ung thư đường tiêu hóa

Nhiều tác giả đưa ra giả thuyết rằng những kết quả trái ngược nhau của tự thực trong ung thư đường tiêu hóa có thể bắt nguồn từ những thay đổi trong các phương pháp gây ra được sử dụng và mức độ kích hoạt tự thực.

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Tổng quan


Ung thư đường tiêu hóa bao gồm một loạt các khối u ác tính ảnh hưởng đến các mô trong đường tiêu hóa, chẳng hạn như thực quản, dạ dày, đại tràng và trực tràng. Ung thư thực quản có liên quan rộng rãi đến tự thực. 

Một nghiên cứu gần đây cho thấy 22 axit ribonucleic chuỗi dài không mã hóa tự thực có liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ sống sót của bệnh nhân mắc ung thư biểu mô thực quản. Nghiên cứu của Fang và cộng sự cho thấy rằng việc kích thích tự thực bảo vệ các tế bào ung thư thực quản tiếp xúc với phương pháp điều trị diketopyrrolopyrrole. 

Hơn nữa, tự thực có liên quan đến khả năng kháng thuốc liên quan đến microRNA-193b đối với 5-fluorouracil. Hơn nữa, microRNA-498 đã được xác định là chất ức chế ung thư thực quản thông qua việc ức chế tự thực. Những phát hiện này nhấn mạnh sự tương tác phức tạp giữa tự thực và sự tiến triển của ung thư thực quản, gợi ý những hướng đi tiềm năng để can thiệp điều trị trong bệnh ác tính này.

Ngược lại, một số nghiên cứu đã đưa ra những phát hiện trái ngược nhau. Một cuộc nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc làm im lặng autophagy làm trầm trọng thêm tình trạng kháng xạ trị ở ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản. Hơn nữa, việc gây ra tự thực có thể gây ra tình trạng ngừng chu kỳ tế bào do autophagy trung gian. 

Nhiều tác giả đưa ra giả thuyết rằng những kết quả trái ngược nhau của tự thực trong ung thư thực quản có thể bắt nguồn từ những thay đổi trong các phương pháp gây ra được sử dụng và mức độ kích hoạt tự thực. Do đó, cần phải có thêm nghiên cứu để làm rõ chức năng chính xác của tự thực trong ung thư thực quản.

Cần phải có thêm nghiên cứu để làm rõ chức năng chính xác của tự thực trong ung thư thực quản.
Cần phải có thêm nghiên cứu để làm rõ chức năng chính xác của tự thực trong ung thư thực quản.

Vai trò của tự thực trong ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày là một trong những bệnh ác tính đáng gờm nhất ở người trên toàn cầu và gây ra gánh nặng đáng kể cho sức khỏe. Các cuộc điều tra gần đây đã thăm dò sâu rộng vai trò của tự thực trong ung thư dạ dày. 

Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng điều chỉnh mức độ tự thực có thể là một chiến lược điều trị đầy hứa hẹn cho việc điều trị ung thư dạ dày. Đáng chú ý, sự tương tác giữa tự thực và tế bào chết theo chương trình (PD)-1 đã thu hút được sự chú ý đáng kể. 

Wang và cộng sự đã chứng minh rằng ức chế tự thực có thể làm tăng biểu hiện PD-L1, do đó làm tăng độ nhạy cảm với liệu pháp miễn dịch nhắm mục tiêu PD-L1. Hơn nữa, các nghiên cứu đã phát hiện ra sự tham gia của hoạt hóa tự thực do phản ứng protein không gấp nếp gây ra, được trung gian bởi SEC62, một protein màng lưới nội chất liên quan đến vận chuyển protein, trong việc thúc đẩy di căn ung thư dạ dày. Tuy nhiên, vai trò của tự thực trong bối cảnh nhiễm trùng Helicobacter pylori (H. pylori) là phức tạp.

Thực bào đã được chứng minh là mang lại khả năng bảo vệ chống lại nhiễm trùng H. pylori, do đó ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc ung thư dạ dày. Phơi nhiễm kéo dài với H. pylori đã được chứng minh là ức chế thực bào ở các tế bào biểu mô dạ dày. Hơn nữa, các chức năng phân hủy của thực bào do vitamin D3 gây ra có hiệu quả trong việc bảo vệ các tế bào biểu mô dạ dày chống lại nhiễm trùng H. pylori. 

Những phát hiện này nhấn mạnh nhu cầu phải cân nhắc cẩn thận các tác động đa diện và đôi khi trái ngược nhau của thực bào trong điều trị ung thư dạ dày, đặc biệt là ảnh hưởng của nó đối với nhiễm trùng H. pylori. Ung thư trực tràng là khối u ác tính phổ biến ảnh hưởng đến đường tiêu hóa. Đây là khối u ác tính phổ biến thứ tư trên toàn cầu và chiếm khoảng 11% trong số tất cả các khối u ác tính được chẩn đoán trên toàn thế giới. 

Nghiên cứu sâu rộng, bao gồm các cuộc điều tra do nhóm của chúng tôi và các nhà nghiên cứu khác thực hiện, đã làm nổi bật vai trò của tự thực trong việc điều hòa tình trạng viêm trong các bệnh. Tương tự như vậy, trong ung thư trực tràng, tự thực đã nổi lên như một yếu tố quan trọng trong việc điều chỉnh các quá trình viêm và miễn dịch. Đáng chú ý, tự thực có vai trò cân bằng chuyển hóa tập trung vào việc bảo tồn các tế bào Treg điều hòa. 

Ngoài ra, việc gây ra ty thể đã được chứng minh là kích thích miễn dịch thích ứng chống khối u. Ngược lại, sự thiếu hụt tự thực có liên quan đến sự tiến triển của khối u trong ung thư trực tràng. Những dữ liệu này cho thấy chức năng viêm và điều hòa miễn dịch của tự thực có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm quá trình hình thành khối u. Ngoài ra, các đột biến cụ thể ở Atgs có thể mang lại lợi thế điều trị trong ung thư đại tràng

Kết luận


Các vai trò phức tạp và đôi khi trái ngược nhau của tự thực trong các bệnh lý đường tiêu hóa hay ung thư đường tiêu hóa có thể là do các tác động khác nhau của nó ở các giai đoạn phát triển bệnh khác nhau, sự cảm ứng khác biệt của tự thực hoặc bản chất phức tạp của quá trình sinh bệnh và tiến triển của đường tiêu hóa. 

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu sâu rộng trong lĩnh vực này, nhưng các cơ chế chính xác mà tự thực hoạt động trong các bệnh lý đường tiêu hóa vẫn còn khó nắm bắt. Sự phức tạp của vai trò tự thực trong các bệnh lý đường tiêu hóa đã cản trở việc ứng dụng thành công các liệu pháp điều chỉnh tự thực trong lâm sàng.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

1.    Sakai Y , Oku M. ATG và ESCRT kiểm soát nhiều chế độ của vi thực bào. FEBS Lett . 2024; 598 :48-58 
2.    Kumar V , Jurkunas UV. Rối loạn chức năng ty thể và thực bào ty thể trong bệnh thoái hóa giác mạc nội mô Fuchs. Tế bào . 2021; 10 
3. Shao BZ, Zhang WG, Liu ZY, Linghu EQ. Tự thực và vai trò của nó trong các bệnh đường tiêu hóa.  World J Gastroenterol  2024; 30(36): 4014-4020 [DOI: 10.3748/wjg.v30.i36.4014 ]
 

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe