Mục đích chính của nội soi thực quản dạ dày tá tràng (EGD) là kiểm tra toàn diện thực quản, dạ dày và tá tràng để phát hiện khối u. Hơn nữa, EGD cung cấp thông tin vô giá để chẩn đoán bệnh, đánh giá tình trạng bệnh và lập kế hoạch điều trị cho những bệnh nhân có triệu chứng.
Bài viết được viết bởi ThS.BS Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa, Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Quy trình này có thể phát hiện nhiều tình trạng, bao gồm cả ung thư và cũng có thể giúp xác định những thay đổi niêm mạc do thuốc mà bệnh nhân dung. Mặc dù loét dạ dày và tá tràng do thuốc chống viêm không steroid (NSAID) từ lâu đã được biết đến là tổn thương đường tiêu hóa trên do thuốc, sự ra đời của nhiều loại thuốc khác nhau trên thị trường đã dẫn đến sự xuất hiện của các loại tổn thương và biến đổi niêm mạc mới.
Thay đổi niêm mạc dạ dày do thuốc ức chế bơm Proton gây ra
Thuốc ức chế bơm Proton (PPI), một nhóm thuốc làm giảm sản xuất axit dạ dày, thường được kê đơn để điều trị các tình trạng như bệnh trào ngược dạ dày thực quản và loét dạ dày tá tràng. Mặc dù PPI thường được coi là an toàn với tỷ lệ tác dụng phụ thấp, nhưng bằng chứng mới nổi cho thấy việc sử dụng lâu dài có thể gây ra nhiều biến đổi nội soi và mô bệnh học khác nhau ở niêm mạc dạ dày. Những biến đổi này bao gồm nhiều tổn thương phẳng và trắng nhô cao, polyp tuyến đáy vị, polyp tăng sản, niêm mạc giống như đá cuội, các đốm đen và hình dạng quả cầu trắng.
Thuật ngữ “nhiều tổn thương phẳng và trắng nhô cao” được đề xuất vào năm 2011 để mô tả một loại polyp mới liên quan đến việc sử dụng PPI được quan sát thấy ở tâm vị, vòm hoặc thân vị dạ dày (Hình 1 A - C ). Những tổn thương này biểu hiện là các vùng giới hạn và phân định rõ ràng, đặc trưng bởi vẻ ngoài màu trắng, thể hiện hình thái tròn và niêm mạc hơi nhô cao với bề mặt nhẵn. Nhiều tổn thương phẳng và trắng nhô cao dễ dàng được xác định trên hình ảnh dải hẹp hơn là quan sát bằng ánh sáng trắng thông thường. Về mặt bệnh lý, người ta quan sát thấy biểu mô nang thẳng, to và tăng sản, đây là đặc điểm điển hình của tổn thương này.
Những thay đổi niêm mạc dạ dày do thuốc ức chế bơm proton gây ra. AC: Niêm mạc giống như đá cuội. Nhiều tổn thương niêm mạc nhô cao, có kích thước khoảng 3-5 mm được nhìn thấy trong thân dạ dày của người dùng thuốc ức chế bơm proton. Sau khi phun thuốc nhuộm màu chàm (B và C); D và E: Các đốm đen. Các đốm đen giống như chấm được quan sát thấy trong thân dạ dày; F và G: Hình dạng cầu trắng. Một chất lắng đọng nhỏ, tròn, màu trắng được quan sát thấy trong quá trình nội soi thực quản-dạ dày-tá tràng. Quan sát nội soi phóng đại với hình ảnh laser xanh làm nổi bật tổn thương (G).
Sử dụng PPI kéo dài gây ra sự hình thành các đốm đen trên niêm mạc dạ dày, được phân biệt là các tổn thương nhỏ, tối, giống như chấm trên EGD (Hình 4D và E ). Về mặt bệnh học vi thể, các đốm này được đặc trưng bởi sự mắc kẹt của các chất màu nâu bên trong lòng giãn nở của các nang tuyến đáy vị mở rộng. Sự giãn nở nang của các nang tuyến đáy vị do sử dụng PPI được coi là một yếu tố nguyên nhân chính góp phần vào sự phát triển của các đốm đen.
Thuật ngữ “hình dạng quả cầu trắng” được định nghĩa là một đặc điểm hình cầu trắng nhỏ (≤ 1 mm) nằm bên dưới biểu mô dạ dày, được quan sát thấy trong quá trình quan sát nội soi phóng đại với hình ảnh dải hẹp. Đặc điểm này liên quan đến ung thư dạ dày giai đoạn đầu và thường được phát hiện gần đường phân định. Nó chỉ ra các bệnh ung thư có thành phần biệt hóa. Ngược lại, hình dạng quả cầu trắng cũng được ghi nhận ở niêm mạc dạ dày của những bệnh nhân không phải ung thư mắc viêm dạ dày tự miễn hoặc trong quá trình sử dụng PPI.
Những thay đổi niêm mạc dạ dày do thuốc ức chế bơm proton gây ra. AC: Niêm mạc giống như đá cuội. Nhiều tổn thương niêm mạc nhô cao, có kích thước khoảng 3-5 mm được nhìn thấy trong thân dạ dày của người dùng thuốc ức chế bơm proton. Sau khi phun thuốc nhuộm màu chàm (B và C); D và E: Các đốm đen. Các đốm đen giống như chấm được quan sát thấy trong thân dạ dày; F và G: Hình dạng cầu trắng. Một chất lắng đọng nhỏ, tròn, màu trắng được quan sát thấy trong quá trình nội soi thực quản-dạ dày-tá tràng. Quan sát nội soi phóng đại với hình ảnh laser xanh làm nổi bật tổn thương (G).
Sử dụng PPI kéo dài gây ra sự hình thành các đốm đen trên niêm mạc dạ dày, được phân biệt là các tổn thương nhỏ, tối, giống như chấm trên EGD (Hình 4D và E ). Về mặt bệnh học vi thể, các đốm này được đặc trưng bởi sự mắc kẹt của các chất màu nâu bên trong lòng giãn nở của các nang tuyến đáy vị mở rộng. Sự giãn nở nang của các nang tuyến đáy vị do sử dụng PPI được coi là một yếu tố nguyên nhân chính góp phần vào sự phát triển của các đốm đen. Thuật ngữ “hình dạng quả cầu trắng” được định nghĩa là một đặc điểm hình cầu trắng nhỏ (≤ 1 mm) nằm bên dưới biểu mô dạ dày, được quan sát thấy trong quá trình quan sát nội soi phóng đại với hình ảnh dải hẹp. Đặc điểm này liên quan đến ung thư dạ dày giai đoạn đầu và thường được phát hiện gần đường phân định. Nó chỉ ra các bệnh ung thư có thành phần biệt hóa. Ngược lại, hình dạng quả cầu trắng cũng được ghi nhận ở niêm mạc dạ dày của những bệnh nhân không phải ung thư mắc viêm dạ dày tự miễn hoặc trong quá trình sử dụng PPI.
Loét và ăn mòn dạ dày do thuốc
Tổn thương niêm mạc dạ dày do NSAID từ lâu đã được biết đến. Cơ chế này bao gồm một số tương tác phức tạp. NSAID ức chế cyclooxygenase và sau đó làm giảm tổng hợp prostaglandin, đóng vai trò bảo vệ trong việc duy trì tính toàn vẹn của niêm mạc dạ dày. NSAID gây co mạch và do đó làm giảm lưu lượng máu, làm ảnh hưởng đến việc cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho niêm mạc dạ dày, dẫn đến tổn thương niêm mạc. Một số NSAID có tác dụng độc trực tiếp lên niêm mạc dạ dày. Các cuộc điều tra dịch tễ học đã chỉ ra rằng nguy cơ tương đối phát triển các biến chứng đường tiêu hóa tăng cao ở những bệnh nhân dùng đồng thời corticosteroid và NSAID. Tương tự như viêm thực quản do thuốc, bisphosphonate, viên sắt và doxycycline gây kích ứng trực tiếp niêm mạc dạ dày do các đặc tính hóa học của thuốc và tiếp xúc trực tiếp với niêm mạc dạ dày.
Bệnh giả melanosia ở dạ dày
Giả hắc tố melanosia là một tình trạng bệnh lý lành tính và ít gặp trong đó sắc tố đen tích tụ trong các đại thực bào nằm ở lớp niêm mạc. Không giống như bệnh hắc tố coli, sự khởi phát của bệnh giả hắc tố dạ dày không liên quan đến việc sử dụng thuốc nhuận tràng, nhưng được cho là có liên quan đến thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn beta và bổ sung sắt. Trong khi bệnh giả hắc tố dạ dày gây ra những thay đổi về màu sắc niêm mạc, bệnh nhân không có các triệu chứng lâm sàng đi kèm và không biểu hiện tổn thương niêm mạc như xói mòn hoặc loét. Được coi là một tình trạng lành tính, chẩn đoán bệnh giả hắc tố dạ dày không nhất thiết phải bắt buộc phải thay đổi bất kỳ loại thuốc được kê đơn nào.
Viêm dạ dày liên quan đến Olmesartan
Olmesartan, một chất đối kháng thụ thể angiotensin II thường được sử dụng để điều trị tăng huyết áp, gây ra bệnh lý ruột với các triệu chứng giống như bệnh sprue. Mặc dù không thường xuyên, olmesartan đã được báo cáo là gây ra viêm dạ dày lymphocytic, collagenous hoặc mãn tính.
Tài liệu tham khảo
1. Bordin DS, Livzan MA, Gaus OV, Mozgovoi SI, Lanas A. Drug-Associated Gastropathy: Diagnostic Criteria. Diagnostics (Basel). 2023;13 a
2. Joo MK, Park CH, Kim JS, Park JM, Ahn JY, Lee BE, Lee JH, Yang HJ, Cho YK, Bang CS, Kim BJ, Jung HK, Kim BW, Lee YC; Korean College of Helicobacter Upper Gastrointestinal Research. Clinical Guidelines for Drug-Related Peptic Ulcer, 2020 Revised Edition. Gut Liver. 2020;14:707-726.
3.Iwamuro M, Kawano S, Otsuka M. Drug-induced mucosal alterations observed during esophagogastroduodenoscopy. World J Gastroenterol 2024; 30(16): 2220-2232.