Chẩn đoán bệnh viêm ruột mãn tính (IBD) dựa trên sự kết hợp các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm và dữ liệu hình ảnh. Hình ảnh các đặc điểm hình thái của IBD bao gồm đánh giá các thay đổi niêm mạc, liên quan xuyên thành và các biểu hiện ngoài ruột.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Tổng quan
Không có kỹ thuật hình ảnh đơn lẻ nào đóng vai trò là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán để bao gồm tất cả các biểu hiện của bệnh. Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) cho phép chụp cắt lớp các thay đổi xuyên thành và các biểu hiện ngoài ruột. Trong khi ở Hoa Kỳ, kỹ thuật được lựa chọn là CT Scan, thì ở Châu Âu, trọng tâm là MRI bụng và siêu âm (US).
Ưu điểm của siêu âm ruột
Hầu hết bệnh nhân mắc IBD mãn tính được chẩn đoán khi còn trẻ. Sau khi chẩn đoán ban đầu, nhiều bệnh nhân trẻ này phải trải qua các thủ thuật hình ảnh lặp đi lặp lại trong quá trình lâm sàng thay đổi của bệnh, đặc trưng bởi các giai đoạn thuyên giảm và bệnh hoạt động xen kẽ, và trong việc theo dõi đáp ứng với điều trị.
Siêu âm ruột có ưu điểm là không xâm lấn, ít tốn kém và dễ lặp lại, do đó có thể rất hữu ích trong việc theo dõi bệnh nhân mắc IBD. Ngoài ra, mối lo ngại ngày càng tăng về việc tiếp xúc với bức xạ ở người trưởng thành trẻ tuổi cho thấy nhu cầu về các kỹ thuật tiết kiệm bức xạ như siêu âm và MRI. Bài viết này tập trung vào thực hành lâm sàng hiện tại của siêu âm trong IBD, mô tả các công nghệ hiện tại được sử dụng trong siêu âm đường ruột xuyên bụng và các phát hiện siêu âm đặc trưng trong bệnh Crohn và viêm loét đại tràng.
Chuẩn bị đầu dò siêu âm
Siêu âm (US) cho các bệnh viêm ruột (IBD) đòi hỏi đầu dò mảng tuyến tính tần số cao (5-17 MHz). Đầu dò mảng tuyến tính tần số cao cung cấp độ phân giải không gian tăng lên của thành ruột, điều này rất cần thiết để đánh giá đường kính thành ruột và phân biệt lớp thành ruột.
Trong các đầu dò tần số cao hiện đại, việc tạo ra các xung US điều biến đặc biệt trong quá trình truyền dẫn dẫn đến sự thâm nhập lớn hơn của US tần số cao. Công nghệ kết hợp cho phép tái tạo hình ảnh bằng cách sử dụng các phản hồi tín hiệu từ các tần số khác nhau hoặc từ việc xem các hướng khác nhau dẫn đến tăng độ phân giải tương phản và định nghĩa đường viền của kiến trúc thành ruột. Hình ảnh Doppler màu hoặc công suất và US tăng cường độ tương phản (CEUS) cung cấp thông tin chi tiết về thành ruột và mạch máu ngoài ruột, phản ánh hoạt động của bệnh viêm.
Chuẩn bị bệnh nhân để siêu âm trong bệnh viêm ruột
Siêu âm ruột xuyên bụng thông thường với đầu dò cong thông thường 3,5-5 MHz được khuyến nghị trước khi siêu âm tần số cao đường ruột để không bỏ sót các nguyên nhân ngoài ruột tiềm ẩn gây khó chịu ở bụng. Cần đặc biệt chú ý đến vùng bụng dưới (đường tiết niệu sinh dục) và vị trí đau của từng bệnh nhân. Siêu âm tần số cao đường ruột đòi hỏi người kiểm tra phải có thêm thời gian và kiên nhẫn.
Ngoại trừ các trường hợp khẩn cấp, siêu âm tiêu chuẩn nên được thực hiện trước bữa ăn vào buổi sáng hoặc ít nhất sau 4 giờ nhịn ăn để giảm nhu động ruột và lượng khí trong lòng ruột. Nén dần ruột bằng đầu dò siêu âm giúp giảm khí trong lòng ruột. Việc sử dụng dịch trong lòng ruột như được sử dụng trong quá trình chuẩn bị ruột để nội soi đại tràng hoặc sử dụng thuốc cản quang đường ruột đã được chứng minh là cải thiện khả năng phân định cấu trúc thành ruột và phát hiện các tổn thương hỗng tràng và đại tràng ở những bệnh nhân mắc IBD, nhưng những kỹ thuật tinh vi hơn này vẫn chưa được đưa vào thực hành lâm sàng thường quy.
Đánh giá sự liên quan của thành ruột
Tiêu chuẩn chẩn đoán được sử dụng rộng rãi nhất để chẩn đoán IBD là thành ruột dày lên kèm theo tăng sinh mạch (duy trì hoặc mất phân tầng thành ruột).
Trong hầu hết các nghiên cứu, ruột được coi là dày lên khi đường kính thành ruột vượt quá 3 mm. Độ chính xác chẩn đoán của các giá trị cắt khác nhau trong CD đã được so sánh trong phân tích tổng hợp của Fraquelli và cộng sự. Độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 88% và 93% đạt được khi sử dụng ngưỡng độ dày thành ruột lớn hơn 3 mm, và độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 75% và 97% đạt được khi sử dụng ngưỡng lớn hơn 4 mm.
Một số nghiên cứu báo cáo mối quan hệ giữa độ dày thành ruột và hoạt động của bệnh lâm sàng bằng cách sử dụng chỉ số hoạt động của bệnh Crohn (CDAI) hoặc Chỉ số Harvey Bradshaw (HBI) khi chẩn đoán ban đầu và trong quá trình lâm sàng của CD và liên quan đến các phát hiện nội soi siêu âm ruột.
Tài liệu tham khảo
1. Pallotta N, Tomei E, Viscido A, Calabrese E, Marcheggiano A, Caprilli R, Corazziari E. Small intestine contrast ultrasonography: an alternative to radiology in the assessment of small bowel disease. Inflamm Bowel Dis. 2005;11:146–153.
2. Parente F, Greco S, Molteni M, Anderloni A, Sampietro GM, Danelli PG, Bianco R, Gallus S, Bianchi Porro G. Oral contrast enhanced bowel ultrasonography in the assessment of small intestine Crohn‘s disease. A prospective comparison with conventional ultrasound, x ray studies, and ileocolonoscopy. Gut. 2004;53:1652–1657.
3. Deike Strobel, Ruediger S Goertz, and Thomas Bernatik. Diagnostics in inflammatory bowel disease: Ultrasound. World J Gastroenterol. 2011 Jul 21; 17(27): 3192–3197.