Các thay đổi liên quan đến xương ở bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan

Biến đổi cơ xương ở ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) ít phổ biến hơn các biến chứng liên quan đến gan. Tuy nhiên, chúng có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống và tiên lượng chung của bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Rào cản chính trong đánh giá lâm sàng về biến đổi cơ xương do ung thư biểu mô tế bào gan gây ra liên quan đến chẩn đoán hiệu quả và kịp thời vì các biến chứng này thường không đối xứng ptomatic và không rõ ràng trong quá trình đánh giá lâm sàng thường quy. Di căn xương tiêu xương là những biến đổi xương phổ biến nhất liên quan đến ung thư biểu mô tế bào gan, có thể liên quan đến nguy cơ gãy xương do chấn thương thấp tăng lên. Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng loãng xương, teo cơ và chứng cơ xương có liên quan đến kết quả lâm sàng kém ở những bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan

Vai trò của những thay đổi về cơ xương trong việc quản lý lâm sàng bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Nhiều yếu tố khác nhau góp phần làm suy giảm cơ xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Nên sử dụng phương pháp tiếp cận đa thang điểm và đa ngành để đánh giá sức khỏe cơ xương. aBMD: Mật độ khoáng xương theo diện tích; BMC: Hàm lượng khoáng xương; HCC: Ung thư biểu mô tế bào gan; FRAX: Công cụ đánh giá nguy cơ gãy xương; BTM: Dấu hiệu chuyển hóa xương; ALM: Khối lượng nạc chi; FFMA: Diện tích cơ không mỡ; PMI: Chỉ số cơ thắt lưng; SMA: Diện tích cơ xương; SMI: Chỉ số cơ xương
Vai trò của những thay đổi về cơ xương trong việc quản lý lâm sàng bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Nhiều yếu tố khác nhau góp phần làm suy giảm cơ xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Nên sử dụng phương pháp tiếp cận đa thang điểm và đa ngành để đánh giá sức khỏe cơ xương. aBMD: Mật độ khoáng xương theo diện tích; BMC: Hàm lượng khoáng xương; HCC: Ung thư biểu mô tế bào gan; FRAX: Công cụ đánh giá nguy cơ gãy xương; BTM: Dấu hiệu chuyển hóa xương; ALM: Khối lượng nạc chi; FFMA: Diện tích cơ không mỡ; PMI: Chỉ số cơ thắt lưng; SMA: Diện tích cơ xương; SMI: Chỉ số cơ xương

Các biến cố liên quan đến xương ở bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan

Di căn xương, gãy xương bệnh lý, giảm mật độ khoáng xương (BMD) tăng canxi huyết và chèn ép tủy sống là một trong những biến cố liên quan đến xương liên quan đến ung thư biểu mô tế bào gan có liên quan đến lâm sàng nhất. Nguy cơ di căn xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan không nổi bật như ở các bệnh ác tính phổ biến khác, chẳng hạn như ung thư dạ dày, ung thư phổi hoặc ung thư vú. Tỷ lệ di căn xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan thay đổi từ 3% - 20%. Đã có những tiến bộ đáng kể về công nghệ trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, giúp cải thiện tỷ lệ sống sót chung và di căn xương đã trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây. Di căn xương được báo cáo ở 38,5% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan khi chẩn đoán ban đầu, trong khi 11,7% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan phát triển di căn xương sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u ác tính nguyên phát. 

Hơn nữa, tỷ lệ di căn xương tích lũy sau 1 năm chẩn đoán bệnh ngoài gan ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan là 6,4%. Di căn xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan thường được chẩn đoán ở bộ xương trục [cột sống (lên đến 40%), xương chậu và xương sườn]. Di căn xương liên quan đến ung thư biểu mô tế bào gan chủ yếu là di căn hủy xương (mật độ xương giảm giống như vảy hoặc xói mòn), nhưng cũng có thể biểu hiện dưới dạng di căn tạo xương và hình thành khối mô mềm mở rộng.

Tần suất gãy xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan

Do quá trình bệnh diễn biến nhanh, các nghiên cứu điều tra gãy xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan rất hiếm. Một số dữ liệu cho thấy có tới 13,2% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan bị gãy xương, nhưng cần có các nghiên cứu dịch tễ học triển vọng quy mô lớn được thiết kế tốt trong tương lai để phân tích nguy cơ gãy xương ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Trong những trường hợp không có sẵn phân tích nguy cơ gãy xương, các dấu hiệu thay thế lâm sàng về tình trạng xương giòn tăng được sử dụng để đánh giá gián tiếp nguy cơ gãy xương. Giảm mật độ khoáng xương (thu được bằng phép đo hấp thụ tia X năng lượng kép) được chấp nhận rộng rãi là dấu hiệu thay thế phù hợp trong đánh giá lâm sàng về nguy cơ gãy xương. Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giớiTheo đó, những cá nhân có điểm T trong khoảng từ -1 đến -2,5 được xác định là những người bị loãng xương, trong khi những cá nhân có điểm T thấp hơn -2,5 được chẩn đoán mắc chứng loãng xương.

Những thay đổi mật độ khoáng xương liên quan đến ung thư biểu mô tế bào gan

Mặc dù tình trạng loãng xương và giảm mật độ xương thường được nghiên cứu ở những bệnh nhân mắc nhiều dạng bệnh gan mạn tính khác nhau, nhưng gần đây đã có sự chuyển hướng sang nghiên cứu những thay đổi mật độ khoáng xương liên quan đến ung thư biểu mô tế bào gan (không phụ thuộc vào di căn xương) Sharma và cộng sự  đã chứng minh rằng việc giảm mật độ khoáng xương đốt sống, gánh nặng khối u cao và tuổi cao là những yếu tố quan trọng quyết định tỷ lệ tử vong sau ghép ở những cá nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan. Miyachi và cộng sự đã báo cáo rằng mật độ khoáng xương đốt sống thấp trước phẫu thuật là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với kết quả lâu dài sau phẫu thuật cắt gan ở bệnh nhân nam mắc ung thư biểu mô tế bào gan nhưng không phải ở bệnh nhân nữ mắc ung thư biểu mô tế bào gan. 

Có thể lập luận rằng tính đặc hiệu giới tính này có thể được giải thích bằng tình trạng nội tiết tố sau mãn kinh của những đối tượng nữ tham gia nghiên cứu. Gần đây nhất, Meister và cộng sự và Müller và cộng sự  đã chứng minh rằng mật độ khoáng xương thấp có liên quan đến khả năng sống sót kém hơn ở những bệnh nhân lớn tuổi mắc ung thư biểu mô tế bào gan đang trải qua phẫu thuật cắt bỏ một phần gan hoặc tắc mạch hóa chất qua động mạch. Những nghiên cứu này ngụ ý một cách mạch lạc rằng việc tích hợp phép đo mật độ khoáng xương đốt sống trong một thuật toán lâm sàng mới có thể cải thiện khả năng dự đoán khả năng sống sót và quản lý lâm sàng của những bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan và việc sử dụng các chương trình phục hồi chức năng và liệu pháp chống tiêu xương đặc hiệu có thể cải thiện thêm kết quả điều trị ở những cá nhân này.

Những hạn chế

Hiểu biết hiện tại về những thay đổi về xương ở những bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan bị hạn chế bởi quy mô mẫu nhỏ trong các nghiên cứu hồi cứu có sẵn cũng như số lượng khiêm tốn các nghiên cứu này. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đã được tiến hành bằng cách sử dụng mật độ khoáng xương đốt sống có được từ chụp cắt lớp vi tính đa đầu dò chứ không phải phép đo hấp thụ tia X năng lượng kép, được coi là "tiêu chuẩn vàng" trong đánh giá lâm sàng về nguy cơ gãy xương. Ngoài ra, các phương pháp lâm sàng hiện đại được chấp nhận rộng rãi được sử dụng để đánh giá tình trạng xương cũng có một số hạn chế nhất định. Ví dụ, mật độ khoáng xương được sử dụng như một dấu hiệu thay thế hai chiều của độ giòn của xương mặc dù nó không tính đến các đặc điểm xương nội tại khác (chất lượng xương; Hình 1 ). Hơn nữa, mật độ khoáng xương nằm trong phạm vi sinh lý ở phần lớn những người bị gãy xương và liệu pháp chống loãng xương đã được báo cáo là làm giảm nguy cơ gãy xương mà không ảnh hưởng đến mật độ khoáng xương. Một yếu tố quan trọng khác là tính không đồng nhất của bộ xương người, cho thấy rằng việc đánh giá những thay đổi về xương ở những bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan phải dựa trên vị trí cụ thể. 

Do đó, các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc giải quyết những hạn chế này và sử dụng phương pháp tiếp cận theo thứ bậc trong việc phân tích sự đóng góp của từng yếu tố quyết định độ giòn xương ở những bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan (Hình 1 ). Lợi ích lâu dài của việc đánh giá đa thang điểm và nâng cao các yếu tố quyết định độ giòn xương có thể là tạo ra một thuật toán chẩn đoán mới dành riêng cho từng bệnh nhân, thuật toán này sẽ cung cấp đánh giá lâm sàng chính xác hơn về tình trạng xương ở những bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan.

Tài liệu tham khảo

1.  Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel RL, Torre LA, Jemal A. Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA Cancer J Clin. 2018;68:394-424.   

2.  Mittal S, El-Serag H. Epidemiology of hepatocellular carcinoma. Pathol Epidemiol Cancer. 2016;47:447-454.  

3. Jadzic J, Djonic D. Hepatocellular carcinoma and musculoskeletal system: A narrative literature review. World J Gastroenterol 2024; 30(15): 2109-2117

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe