Các công cụ bổ sung của siêu âm ruột trong chẩn đoán bệnh viêm ruột

Chẩn đoán hình ảnh trong bệnh viêm ruột (IBD) đóng vai trò then chốt trong chẩn đoán ban đầu, cũng như trong quá trình quản lý bệnh nhân mắc IBD đã biết. Sự phát triển của thiết bị siêu âm và chuyên môn ngày càng tăng của các bác sĩ đã nâng cao vai trò của siêu âm ruột trong việc đánh giá đường tiêu hóa ở bệnh nhân IBD. Siêu âm ruột đã được chứng minh là có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, cũng như giá trị dự đoán dương tính và âm tính cao, trong việc phát hiện hoặc loại trừ hoạt động viêm ruột ở IBD. 

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Những lợi thế rõ ràng của siêu âm ruột so với các phương thức chụp ảnh khác bao gồm tính không xâm lấn, khả dụng nhanh chóng và chi phí thấp. Bài đánh giá này tóm tắt những phát triển hiện tại trong việc sử dụng siêu âm ruột để phát hiện IBD và các biến chứng của nó, đồng thời thảo luận về việc sử dụng siêu âm ruột trong việc quản lý bệnh nhân mắc IBD. Chỉ định sử dụng siêu âm ruột trong thực hành hàng ngày được trình bày, mở rộng bằng các phát triển mới như siêu âm tăng cường độ tương phản và đàn hồi đồ.

Hình 1.(A) Hình ảnh cắt ngang của động mạch sigma phía trên động mạch chậu (dấu sao) trong viêm loét đại tràng (đầu dò 9 MHz) Dày niêm mạc tăng âm (mũi tên). (B) Hình ảnh nội soi tương ứng của cùng một bệnh nhân trong cùng một tuần
Hình 1.(A) Hình ảnh cắt ngang của động mạch sigma phía trên động mạch chậu (dấu sao) trong viêm loét đại tràng (đầu dò 9 MHz) Dày niêm mạc tăng âm (mũi tên). (B) Hình ảnh nội soi tương ứng của cùng một bệnh nhân trong cùng một tuần

Đặc điểm của siêu âm bệnh viêm ruột (IUS) trong IBD

Nhiều thông số khác nhau đã được xác định để đặc trưng cho tình trạng viêm ruột trong IBD. Thông số nổi bật nhất trong quá trình IUS để phát hiện hoạt động viêm trong ruột là độ dày thành ruột, chủ yếu tương quan tốt với các dấu hiệu hoạt động lâm sàng như chỉ số Harvey Bradshaw (HBI) và chỉ số hoạt động bệnh Crohn (CDAI).

Siêu âm tăng cường độ tương phản (CEUS)

Một cách khác để mô tả quá trình mạch hóa trong ruột là sử dụng CEUS, cho phép định lượng quá trình mạch hóa có tương quan trực tiếp với các dấu hiệu viêm, chẳng hạn như protein phản ứng C (CRP) hoặc với CDAI ở bệnh nhân CD. CEUS đã được chứng minh là một phương pháp bổ sung hữu ích và là một công cụ hữu ích cho các chỉ định cụ thể ở bệnh nhân IBD. 

Đặc biệt, CEUS đã được chứng minh là có thể xác định chính xác hơn hoạt động của bệnh ở bệnh nhân bệnh Crohn. Các hướng dẫn của Liên đoàn các Hiệp hội Siêu âm trong Y học và Sinh học Châu Âu gần đây đã chỉ định các chỉ định cụ thể để sử dụng CEUS ở bệnh nhân IBD, bao gồm: 

  • 1) ước tính hoạt động của bệnh ở IBD;
  • 2) phân biệt giữa xơ hóa và hẹp do viêm ở CD;
  • 3) mô tả đặc điểm của các ổ áp xe nghi ngờ
  • 4) xác nhận và theo dõi đường đi của lỗ rò. 

Siêu âm tăng cường độ tương phản đã được chứng minh là có khả năng xác định mạch máu thành ruột ở những bệnh nhân mắc bệnh bênh Crohn và những phát hiện này tương quan tốt với những phát hiện của chụp cộng hưởng từ (MRI). 

Phân tích đường cong cường độ thời gian, bao gồm việc xác định cường độ đỉnh, diện tích dưới đường cong và thời gian đạt cường độ đỉnh bằng phần mềm cụ thể, có thể giúp định lượng hoạt động của bệnh. Đo lường định lượng mạch máu thành ruột, được xác định bởi siêu âm tăng cường độ tương phản, tương quan tốt với mức độ nghiêm trọng của nội soi và có thể dự đoán hoạt động của bệnh trong IBD. 

Trong quá trình điều trị sinh học, những thay đổi trong quá trình tăng cường thành ruột có thể là một phương thức hữu ích để theo dõi hoạt động của bệnh trong bệnh CD. Chỉ định hữu ích nhất đối với CEUS trong việc quản lý hàng ngày cho bệnh nhân CD có lẽ là phân biệt áp xe với thâm nhiễm viêm. 

CEUS cho phép phân biệt nhanh chóng và chính xác áp xe với đờm. Một lợi thế bổ sung của CEUS là bất kỳ áp xe nào được phát hiện đều có thể được nhắm mục tiêu ngay lập tức để chẩn đoán hoặc thậm chí là chọc hoặc dẫn lưu điều trị trong cùng một lần kiểm tra.

Tiêm thuốc cản quang vào lỗ rò có thể cải thiện khả năng quan sát đường đi của đường rò trong bệnh Crohn. Một phương pháp dễ dàng hơn để quan sát đường rò là tiêm nước có ga vào lỗ rò. Một hạn chế của CEUS trong IUS là nhu động ruột có thể làm giảm chất lượng hình ảnh và chỉ có thể đánh giá các đoạn ruột cụ thể trong CEUS. CEUS vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong IUS ở bệnh nhân IBD và việc sử dụng CEUS hiện tại chỉ giới hạn ở các tình huống lâm sàng cụ thể.

Siêu âm đàn hồi

Chụp ảnh đàn hồi siêu âm dựa trên độ biến dạng và mô đun đàn hồi đã được phát triển và chấp thuận trên lâm sàng để đánh giá các mô khác nhau. Nhiều phương pháp khác nhau đã được đưa ra để xác định độ đàn hồi bằng siêu âm. 

Trong một phương pháp, sóng cắt được tạo ra bởi một đầu dò siêu âm tạo ra xung lực bức xạ âm thanh (ARFI). Đàn hồi học ARFI đã được sử dụng để đánh giá nhiều loại mô của con người và đã được chứng minh là có thể phân biệt xơ hóa cấp độ thấp với xơ hóa cấp độ cao trong các mẫu ruột người ex vivo, dựa trên các đặc tính đàn hồi sinh hóa của chúng. Một phương pháp khác thực hiện đàn hồi học thời gian thực của ruột bằng cách tái tạo nhanh các mô đun đàn hồi của mô.

Phân biệt giữa hẹp do xơ hóa và bệnh viêm ruột là một vấn đề khó khăn ở những bệnh nhân bị bệnh bệnh Crohn do xơ hóa hẹp. Ngày nay, không có phương pháp tiêu chuẩn vàng nào để phân biệt giữa hẹp do viêm và hẹp do xơ hóa. Trong một nghiên cứu gần đây, vận tốc sóng cắt (SWV) thu được từ siêu âm đàn hồi đã hữu ích trong việc phân biệt ruột bị viêm cấp tính với ruột bị xơ hóa trong mô hình chuột được gây ra bởi axit 2,4,5-trinitrobenzenesulfonic. 

Trong thử nghiệm này, SWV thành ruột trung bình cao hơn đáng kể đối với xơ hóa so với những thay đổi viêm cấp tính ở ruột. Diện tích dưới đường cong đặc tính hoạt động của máy thu (ROC) của tỷ lệ SWV để phân biệt ruột bị xơ hóa với ruột bị viêm được xác nhận về mặt mô bệnh học là 0,971.

Trong một nghiên cứu gần đây, siêu âm đàn hồi thời gian thực (RTE) đã được so sánh trước, trong và sau phẫu thuật cắt bỏ, về mặt mô học và bằng cách đo hàm lượng collagen. Người ta đã chỉ ra rằng RTE có thể được sử dụng để phân biệt đáng tin cậy mô xơ hóa với mô không xơ hóa (P <0,001). Có mối tương quan tốt giữa các phép đo biến dạng RTE trước, trong và sau phẫu thuật của các đoạn ruột không bị ảnh hưởng và bị ảnh hưởng trong thử nghiệm này.

Các nghiên cứu sâu hơn với phương pháp thú vị này phải được tiến hành để xác nhận những kết quả này trước khi nó có thể được sử dụng để đưa ra quyết định dựa trên lâm sàng ở những bệnh nhân bị CD hẹp. Liệu trong tương lai có thể phân biệt rõ ràng hẹp do viêm với hẹp do xơ hóa ở CD hay không vẫn còn là một câu hỏi, vì hẹp ở CD luôn liên quan đến sự kết hợp của hoạt động mô viêm và mô xơ hóa.

Tài liệu tham khảo 

1. Strobel D, Goertz RS, Bernatik T. Diagnostics in inflammatory bowel disease: ultrasound. World J Gastroenterol. 2011;17:3192–3197. [ 

2. Calabrese E, Petruzziello C, Onali S, et al. Severity of postoperative recurrence in Crohn’s disease: correlation between endoscopic and sonographic findings. Inflamm Bowel Dis. 2009;15:1635–1642

3. Torsten Kucharzik, Klaus Kannengiesser, and Frauke Petersen. The use of ultrasound in inflammatory bowel disease. Ann Gastroenterol. 2017; 30(2): 135–144.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe