Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một trong những rối loạn tiêu hóa phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Đây là một rối loạn tiêu hóa chức năng đặc trưng bởi đau bụng kèm thay đổi tính chất phân hoặc tần suất đi tiêu, ngoài ra còn thường kèm đầy hơi, chướng bụng. Khi các biện pháp điều trị không dùng thuốc không thành công, chúng ta có thể tiến đến việc dùng thuốc.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Nguyên tắc dùng thuốc trong hội chứng ruột kích thích hiện nay thường được áp dụng từng bước một với thuốc đầu tay như hướng dẫn của AGA rồi đến các thuốc dành cho hội chứng ruột kích thích không đáp ứng ban đầu. Trong quá trình dùng thuốc, nếu triệu chứng không đáp ứng với cac thuốc điều trị đầu tay có thể tiến đến thực hiện các xét nghiệm tầm soát các nguyên nhân thực thể rồi mới điều chỉnh thuốc.
Các chất điều hòa thần kinh trung ương
Các chất điều hòa thần kinh trung ương như thuốc chống trầm cảm, đã được ghi nhận giảm bớt triệu chứng ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích. Gần đây, các thuốc này đã được gọi tên lại là các chất điều hòa trục não–ruột vì chúng tác động cả trên não và tại ruột và phù hợp hơn với việc định nghĩa lại các rối loạn tiêu hóa chức năng như các rối loạn của trục não–ruột. Thuật ngữ mới này được khuyến cáo để cải thiện sự hiểu biết về cơ chế hoạt động và giá trị dược lý của chúng, giảm bớt định kiến liên quan đến các loại thuốc này, và có thể cải thiện sự tuân thủ điều trị.
Lý do sử dụng các chất điều hòa thần kinh trung ương trong điều trị hội chứng ruột kích thích là vì các tác nhân này có thể thay đổi nhận cảm về đau thông qua việc điều hòa từ trung ương qua đầu vào cảm giác nội tạng, thay đổi vận chuyển ruột, giảm hoạt động phát tín hiệu của các sợi thần kinh cảm giác sơ cấp và điều trị các triệu chứng tâm lý đồng thời. Các chất điều hòa thần kinh trung ương đã được nghiên cứu trong hội chứng ruột kích thích bao gồm thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs), chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs), và ít phổ biến hơn là chất ức chế tái hấp thu serotonin–norepinephrine (SNRIs).
Kết quả của bài phân tích hệ thống năm 2019 bao gồm 12 RCT về TCAs (n = 787) và 7 RCT về SSRIs (n = 356). Nguy cơ tương đối của TCAs so với giả dược trong giảm triệu chứng là 0,65 (KTC 95% 0,55–0,77), NNT của TCAs là 4,5 (KTC 95% 3,5–7,9). Trong một phân tích mạng của chất xơ, chất chống co thắt, và các chất điều chỉnh thần kinh não–ruột, TCAs được xếp hạng đầu tiên về hiệu quả trong việc cải thiện đau bụng. Rủi ro tương đối của triệu chứng vẫn tồn tại với SSRIs so với giả dược là 0,68 (KTC 95% 0,51–0,91), mặc dù có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiên cứu. Số người cần điều trị (NNT) cho SSRIs là 5 (KTC 95% 3–16,5).
Các TCA liều thấp và SSRI được khuyến cáo bởi ACG, AGA và UEG. Các tác dụng phụ phổ biến nhất liên quan đến TCAs bao gồm khô miệng, táo bón và buồn ngủ. Desipramine và nortriptyline ít gây buồn ngủ hơn so với các loại thuốc khác trong cùng họ, như amitriptyline, do tác dụng kháng histamin của chúng thấp hơn. Amitriptyline có nhiều tác dụng chống muscarinic hơn so với các TCAs khác.
Các chất SSRIs thường được dung nạp tốt hơn so với TCAs và chúng thường được sử dụng trong HCRKT, mặc dù hầu hết các thử nghiệm đều nhỏ. Mặc dù lợi ích của SSRIs dường như là cho các triệu chứng toàn thân, như đã mô tả ở trên, tiêu chảy có thể là một tác dụng phụ và do đó chúng có thể hữu ích hơn ở bệnh nhân mắc táo bón. Các chất điều hòa thần kinh trung ương khác như SNRIs duloxetine và venlafaxine và thuốc chống loạn thần không điển hình quetiapine đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm nhỏ đối với các rối loạn tiêu hóa chức năng nhưng không có đủ bằng chứng để cung cấp khuyến cáo chung cho việc sử dụng chúng trong hội chứng ruột kích thích.
Các nhóm thuốc điều hòa thần kinh trong hội chứng ruột kích thích
Nhóm thuốc | Chỉ định | Tác dụng phụ | Liều |
TCA trước ngủ | Hội chứng ruột kích thích với đau bụng kháng trị (HCRKT thể tiêu chảy) | Chóng mặt Khô miệng Tăng cân Táo bón, bí tiểu | Amitriptylline (10-50mg 1 lần ngày) Nortriptylline (25-50mg 1-2 lần/ ngày) Imipramine (10-75mg 1-2 lần/ ngày |
SSRI sáng | Hội chứng ruột kích thích với trướng bụng (HCRKT thể táo bón) | Tiêu chảy Khó tiêu Bứt rứt, khó ngủ | Citalopram (20mg 1 lần/ ngày) Escitalopram (10-20mg 1 lần/ngày) Sertraline (50-200mg 1 lần/ ngày) Paroxetine (20-60mg 1 lần/ ngày) |
CTC tetracyclic trước ngủ | Hội chứng ruột kích thích với đau bụng kháng trị | Buồn nôn Bứt rứt, khó ngủ | Mirtazapine (7.5-30mg 1 lần/ ngày) |
Tài liệu tham khảo
1. Drossman DA. Functional Gastrointestinal Disorders: History, Pathophysiology, Clinical Features and Rome IV. Gastroenterology. Feb 19 2016;doi:10.1053/j.gastro.2016.02.032
2. Oka P, Parr H, Barberio B, Black CJ, Savarino EV, Ford AC. Global prevalence of irritable bowel syndrome according to Rome III or IV criteria: a systematic review and meta-analysis. The lancet Gastroenterology & hepatology. Oct 2020;5(10):908-917. doi:10.1016/s2468-1253(20)30217-x
3. Quach DT, Vu KT, Vu KV. Prevalence, clinical characteristics, and management of irritable bowel syndrome in Vietnam: A scoping review. JGH open : an open access journal of gastroenterology and hepatology. Nov 2021;5(11):1227-1235. doi:10.1002/jgh3.12616