Tỷ lệ hiện mắc hội chứng ruột kích thích trên thế giới dao động tùy theo tiêu chuẩn chẩn đoán được áp dụng. Trong nghiên cứu của Lovell và cộng sự (cs), tỉ lệ hiện mắc theo tiêu chuẩn Manning, Rome I và Rome II lần lượt là 14%, 8,8% và 9,4%. Ở châu Á nhiều nghiên cứu cho thấy hội chứng ruột kích thích đang ngày càng gia tăng. Áp dụng tiêu chí Rome I và Rome II vào cùng một mẫu, một nghiên cứu tại Việt Nam đã báo cáo tỉ lệ của hội chứng ruột kích thích lần lượt là 7,2% và 10,9%.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Gần đây, một nghiên cứu khảo sát theo Rome IV ghi nhận tỉ lệ hiện mắc năm 2020 là 14,4%. Ở châu Âu và Mỹ bệnh thường gặp ở nữ giới hơn nam giới và chủ yếu xảy ra trong độ tuổi từ 15 đến 65, với biểu hiện ban đầu hay gặp ở đối tượng trong nhóm tuổi từ 30 – 50. Trong khi ở châu Á tỉ lệ mắc bệnh ở nam và nữ gần ngang nhau, và ở Việt Nam thì hội chứng ruột kích thích hay gặp ở độ tuổi 20 đến 30, gần giống như ở các quốc gia châu Á khác.
Sinh bệnh học hội chứng ruột kích thích
Những hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của hội chứng ruột kích thích đã phát triển qua nhiều năm gần đây nhưng vẫn chưa hoàn thiện. Một cơ chế thống nhất hiện nay cho rằng các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích là do rối loạn sự điều hòa của “trục não-ruột” làm biểu hiện bệnh dưới dạng tăng nhạy cảm nội tạng và thay đổi thói quen đi tiêu.
Phần cơ chế bệnh sinh này phân tích sâu về sự tăng nhạy cảm nội tạng trong hội chứng ruột kích thích đồng thời bàn luận chi tiết về các thay đổi từ thần kinh trung ương đến cơ quan ngoại biên trong hội chứng ruột kích thích, bao gồm cả các cơ chế ngoại biên có thể ảnh hưởng ngược lại đến trục não-ruột.
Ảnh hưởng của trục não–ruột từ những thay đổi ngoại biên
Trục não–ruột mô tả sự tương tác song phương giữa hệ tiêu hóa và hệ thần kinh trung ương. Những thay đổi ở ngoại biên như sự tăng độ thấm ruột, sự mất cân bằng trong vi sinh vật đường ruột, hoạt động miễn dịch tăng lên, có thể ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương thông qua trục não–ruột.
Điều này xảy ra do các yếu tố từ ruột có thể tác động đến não bộ qua nhiều cơ chế khác nhau. Stress có thể làm tăng độ thấm của ruột, cho phép các thành phần vi khuẩn, chất độc hại, và chất gây viêm xâm nhập vào mạch máu dễ dàng hơn, điều này sau đó có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, gây ra các phản ứng như tăng cảm giác đau và thay đổi trong cảm xúc. Mặt khác, vi sinh vật đường ruột cũng có thể ảnh hưởng đến độ thấm ruột thông qua khả năng giải phóng protease và kích hoạt các PARs, điều này cho thấy một con đường liên kết giữa vi sinh vật ruột và tăng cảm giác nội tạng qua sự tăng độ thấm ruột.
Tóm lại, những thay đổi ở ngoại biên không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của hệ tiêu hóa mà còn có ảnh hưởng rộng lớn đến hệ thần kinh trung ương qua trục não–ruột, điều này làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về cách thức các rối loạn liên quan đến hội chứng ruột kích thích phát triển và cung cấp cơ sở cho các chiến lược điều trị tiềm năng.
Cảm giác nội tạng và tăng nhạy cảm nội tạng
Cảm giác và vận động của ruột bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm lòng ruột, niêm mạc, hệ thần kinh ruột và hệ thần kinh trung ương, cũng như trao đổi tín hiệu giữa các vùng này. Một lý thuyết thống nhất trong cơ chế bệnh sinh của hội chứng ruột kíc thích cũng như các rối loạn tiêu hóa chức năng khác là có sự rối loạn trong tương tác phức tạp giữa các vùng, được gọi chung là “trục não-ruột” dẫn đến cảm giác và vận động bị thay đổi. Các kích thích cơ học, hóa học và các kích thích khác được nhận cảm bởi các tế bào thần kinh hướng tâm sơ cấp.
Các cơ quan nhận cảm đau chính ở đại tràng và trực tràng là các tế bào thần kinh hướng tâm chính nằm ở tủy sống. Các tế bào thần kinh hướng tâm nguyên phát ở tủy sống có thân tế bào ở hạch rễ sau và các synape thần kinh ở sừng sau. Tín hiệu được truyền dọc theo cột bên ở sừng sau để vào nhân não thất sau bên đối diện của đồi thị. Các dây thần kinh hướng tâm đến tủy sống có ngưỡng kích hoạt thay đổi, có thể thay đổi để đáp ứng với chấn thương và viêm nhiễm.
Tăng nhạy cảm nội tạng được định nghĩa là việc giảm ngưỡng cảm giác đối với cơn đau cũng như các cảm giác khác. Cảm giác nội tạng thường được đánh giá bằng kích thích cơ học hoặc hóa học như capsaicin.
Tài liệu tham khảo
1. Drossman DA. Functional Gastrointestinal Disorders: History, Pathophysiology, Clinical Features and Rome IV. Gastroenterology. Feb 19 2016;doi:10.1053/j.gastro.2016.02.032
2. Oka P, Parr H, Barberio B, Black CJ, Savarino EV, Ford AC. Global prevalence of irritable bowel syndrome according to Rome III or IV criteria: a systematic review and meta-analysis. The lancet Gastroenterology & hepatology. Oct 2020;5(10):908-917. doi:10.1016/s2468-1253(20)30217-x
3. Quach DT, Vu KT, Vu KV. Prevalence, clinical characteristics, and management of irritable bowel syndrome in Vietnam: A scoping review. JGH open : an open access journal of gastroenterology and hepatology. Nov 2021;5(11):1227-1235. doi:10.1002/jgh3.12616