Bài viết được viết bởi Bác sĩ Nguyễn Lê Thảo Trâm - Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang.
Phụ nữ bị ung thư vú liên quan thai kỳ (pregnancy associated breast cancer, PABC) thường xuất hiện một khối u cứng, không đau và không di động, kèm theo gồm phì đại vú một bên với dày da, co rút và tiết dịch núm vú.
1. Hình ảnh điển hình của ung thư vú liên quan thai kỳ
Cũng như bệnh nhân không mang thai, ung thư vú phổ biến nhất liên quan đến thai kỳ là ung thư biểu mô ống tuyến xâm lấn (IDC), nhưng trong giai đoạn thai kỳ các khối u có đặc điểm bệnh học tiến triển hơn. Nghiên cứu của Middleton và cộng sự đã chỉ ra loại subtype bệnh học phổ biến nhất ở 39 trường hợp PABC là u grade cao, thụ thể estrogen và progesterone âm tính (ER (-), PR (-)) và tỷ lệ xâm lấn mạch bạch huyết cao.
Hình ảnh của PABC tương tự như hình ảnh của ung thư vú ở phụ nữ không mang thai. Đặc điểm siêu âm điển hình là khối hồi âm kém, chiều cao hơn chiều rộng, bờ không rõ hoặc tua gai. Hạch nách phì đại có thể do di căn. Thường PABC có phần nang dịch lớn bên trong và 63% có tăng cường âm sau, là hình ảnh thường thấy của tổn thương lành tính. Do đó, bắt buộc phải cân nhắc sinh thiết khi thấy khối đặc mới trên siêu âm ngay cả khi không có dấu hiệu ác tính để tránh chẩn đoán trễ.
Trên nhũ ảnh, hình ảnh phổ biến nhất của PABC là một khối kèm hoặc không kèm các dấu hiệu phụ như dày da, vôi hóa và phì đại hạch nách; hình ảnh khác của PABC là vôi hóa nhưng không kèm dấu hiệu phụ. Dấu hiệu ít gặp là dày da kèm tăng đậm độ mô vú, giống ung thư vú dạng viêm. Biểu hiện này có thể bị nhầm lẫn với viêm vú hậu sản, gây chậm trễ trong chẩn đoán.
Các tài liệu y văn về MRI của PABC còn ít và vì MRI có thuốc tương phản được coi là chống chỉ định trong thai kỳ; hầu hết các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào phụ nữ sau sinh và cho con bú. Mặc dù tăng bắt thuốc mô nền có thể giảm độ nhạy, nghiên cứu của Myers và cộng sự cho thấy MRI với thuốc tương phản có độ nhạy 98% trong chẩn đoán bệnh lý ác tính.
Trong một nghiên cứu tiến cứu gần đây của Nissan và cộng sự đánh giá tính khả thi của MRI không dùng thuốc tương phản với chuỗi xung khuếch tán DTI, PABC thường hạn chế khuếch tán so với mô sợi tuyến xung quanh.
Tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec toàn bộ dữ liệu hình ảnh của chụp nhũ ảnh cũng như các chẩn đoán hình ảnh tuyến vú khác được lưu trữ lâu dài trên hệ thống PACS. Hệ thống này như là một phần của bệnh án điện tử, thuận tiện cho việc theo dõi, so sánh tổn thương ở những lần thăm khám kế tiếp giúp nâng cao giá trị chẩn đoán.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
2. Ung thư vú liên quan thai kỳ không điển hình
Có hai loại u lympho nguyên phát hiếm gặp ảnh hưởng đến vú trong thời kỳ mang thai và cho con bú. Loại ít gặp hơn, Burkitt Lymphoma, xuất hiện lẻ tẻ và có liên quan đến virus Epstein-Barr, biểu hiện dạng phì đại vú, tăng mật độ mô vú lan tỏa hai bên tương ứng với thâm nhiễm u, gặp ở phụ nữ trẻ sau sinh. Loại thứ hai phổ biến hơn, lymphoma non-Hodgkin, điển hình gặp ở phụ nữ lớn hơn. Hình ảnh của loại này giống ung thư vú và thường ở một bên. Mặc dù những u lympho này điển hình không liên quan đến thai kỳ, nhưng có một số ca gặp ở phụ nữ sau sinh.
Một tổn thương hiếm gặp khác là u mạch nguyên phát ở vú (breast angiosarcoma). Loại u tiến triển ác tính này xuất hiện lẻ tẻ ở phụ nữ trẻ, 6-12% liên quan đến thai kỳ hoặc cho con bú. Về mặt lâm sàng, chúng biểu hiện bằng khối không đau sờ thấy được, phát triển nhanh, thường kèm đổi màu da hơi xanh lân cận.
Hình ảnh trên nhũ ảnh không đặc hiệu, thường thấy là một khối không vôi hóa bờ không xác định hoặc vùng bất đối xứng khu trú. Có tới 33% các u mạch vú không thấy được trên nhũ ảnh. Trên siêu âm, những tổn thương có hồi âm khác nhau và có bờ đều hoặc không xác định, tăng sinh mạch mạnh. Trên MRI, các khối u này có tín hiệu không đồng nhất, giảm trên T1 và tăng trên T2. Các u mạch grade thấp thường bắt thuốc tịnh tiến, u grade cao thường bắt thuốc mạnh và thải thuốc, có thể thấy tĩnh mạch dẫn lưu giãn lớn.
Bài viết trên dựa theo “Pregnancy-associated Breast Cancer and Other Breast Disease: A Radiologic Review” của các tác giả Andrew Ong, MD; Lisa A Mullen, MD; Susan C. Harvey, MD, cập nhật ngày 01/09/2020, trên tạp chí Applied Radiology.
Bài viết tham khảo nguồn: appliedradiology.com