Nếu sinh thiết xác nhận ung thư phổi, bác sĩ sẽ sử dụng các xét nghiệm khác để xác định loại ung thư và mức độ lan rộng. Hạch bạch huyết gần đó có thể được kiểm tra tế bào ung thư qua một thủ thuật gọi là nội soi trung thất, trong khi các kỹ thuật hình ảnh như chụp CT, PET, xạ hình xương, và MRI hoặc CT não có thể phát hiện ung thư ở các vị trí khác trong cơ thể.
Ung thư phổi được chẩn đoán như thế nào?
Bác sĩ của bạn có thể nghi ngờ ung thư phổi nếu kiểm tra sức khỏe phát hiện:
- Hạch bạch huyết sưng trên xương đòn
- Một khối u trong bụng
- Hơi thở yếu
- Âm thanh bất thường trong phổi
- Tiếng đục khi gõ vào ngực
- Đồng tử không đều
- Sụp mí mắt
- Yếu ở một cánh tay
- Tĩnh mạch mở rộng ở tay, ngực, hoặc cổ
- Sưng mặt
Ung thư phổi, bắt nguồn từ phổi, cũng có thể lan sang các bộ phận khác của cơ thể như xương, gan, tuyến thượng thận hoặc não. Có thể ung thư được phát hiện đầu tiên ở một vị trí xa, nhưng nếu có bằng chứng nó bắt nguồn từ phổi, vẫn được gọi là ung thư phổi.
Khi ung thư phổi bắt đầu gây ra triệu chứng, nó thường có thể thấy trên X-quang. Đôi khi, ung thư phổi chưa gây ra triệu chứng nào cũng được phát hiện qua chụp X-quang ngực cho một mục đích khác. Bác sĩ có thể yêu cầu chụp CT ngực để kiểm tra chi tiết hơn.
Chẩn đoán ung thư phổi thường được xác nhận qua sinh thiết phổi. Bác sĩ sẽ đưa một ống mỏng, có ánh sáng qua mũi hoặc miệng và xuống đường thở đến khối u để lấy mẫu mô nhỏ. Phương pháp này gọi là nội soi phế quản, thường kết hợp với sinh thiết có hướng dẫn bằng siêu âm nội phế quản (EBUS), đặc biệt hữu ích cho các khối u gần trung tâm phổi.
Nếu sinh thiết xác nhận ung thư phổi, bác sĩ sẽ sử dụng các xét nghiệm khác để xác định loại ung thư và mức độ lan rộng. Hạch bạch huyết gần đó có thể được kiểm tra tế bào ung thư qua một thủ thuật gọi là nội soi trung thất, trong khi các kỹ thuật hình ảnh như chụp CT, PET, xạ hình xương, và MRI hoặc CT não có thể phát hiện ung thư ở các vị trí khác trong cơ thể.
Nếu có dịch trong khu vực giữa các lớp mô lót ngực và phổi, việc hút dịch bằng kim (gọi là chọc hút màng phổi) có thể giúp chẩn đoán ung thư và cải thiện triệu chứng thở. Nếu dịch âm tính với tế bào ung thư - điều này xảy ra khoảng 60% thời gian - bác sĩ có thể thực hiện một thủ thuật gọi là phẫu thuật nội soi lồng ngực có hỗ trợ video (VATS) để kiểm tra lớp lót của phổi tìm khối u và thực hiện sinh thiết.
Do nước bọt, dịch nhầy, và chụp X-quang ngực không hiệu quả trong việc phát hiện khối u nhỏ, nên không khuyến nghị chụp X-quang ngực hàng năm để sàng lọc ung thư phổi.
Tuy nhiên, các nhóm như Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Phòng ngừa Hoa Kỳ khuyến nghị sàng lọc bằng CT xoắn ốc liều thấp cho những người có nguy cơ cao mắc ung thư phổi. Điều này bao gồm những người hút thuốc và người đã từng hút thuốc từ 50 đến 80 tuổi, đã hút ít nhất 20 bao-năm và hiện vẫn hút hoặc đã bỏ thuốc trong 15 năm qua. Bao-năm là số bao thuốc hút mỗi ngày nhân với số năm đã hút. Nếu bạn đã bỏ thuốc hơn 15 năm, có thể không cần sàng lọc.
Các phương pháp điều trị ung thư phổi là gì?
Phẫu thuật cho ung thư phổi
Quyết định phẫu thuật dựa trên loại ung thư phổi, mức độ lan rộng và sức khỏe tổng quát của bạn, đặc biệt là chức năng của phổi. Nhiều người mắc ung thư phổi - đặc biệt là những người hút thuốc - có vấn đề phổi hoặc tim khác khiến việc phẫu thuật trở nên khó khăn. Ung thư đã lan đến hạch bạch huyết giữa phổi từng được coi là không thể phẫu thuật, nhưng việc kết hợp phẫu thuật với hóa trị sau đó đã cải thiện tỷ lệ sống.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ưu tiên cho ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. Bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ khối u cùng với mô phổi và hạch bạch huyết xung quanh. Đôi khi, cần phải cắt bỏ toàn bộ phổi. Sau phẫu thuật, bạn sẽ ở lại bệnh viện trong vài ngày.
Xạ trị cho ung thư phổi
Xạ trị có thể cần thiết để tiêu diệt các tế bào ung thư còn lại, nhưng thường được trì hoãn ít nhất một tháng trong khi vết thương phẫu thuật lành. Các ung thư phổi không phải tế bào nhỏ không thể điều trị bằng phẫu thuật thường được điều trị bằng xạ trị, thường kết hợp với hóa trị.
Hóa trị và liệu pháp kết hợp cho ung thư phổi
Vì có xu hướng lan rộng, ung thư phổi tế bào nhỏ thường được điều trị bằng hóa trị kết hợp - sử dụng hơn một loại thuốc - thường kèm với xạ trị. Phẫu thuật đôi khi được sử dụng, nhưng chỉ khi ung thư được cho là ở giai đoạn rất sớm. Điều này là không phổ biến.
Những người có ung thư đã di căn, hoặc lan đến các phần xa của cơ thể, thường được điều trị bằng hóa trị hoặc xạ trị. Vì ung thư phổi di căn rất khó chữa, mục tiêu chính của điều trị là mang lại sự thoải mái và kéo dài tuổi thọ. Các phương pháp điều trị hiện nay có thể thu nhỏ khối u, giảm đau và các triệu chứng khác.
Hiện nay khuyến nghị rằng các bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn tiến xa nên nhận chăm sóc giảm nhẹ (chăm sóc nhằm giảm đau và các triệu chứng khác) cùng với điều trị ung thư. Điều này không chỉ mang lại sự thoải mái mà còn cải thiện kết quả nếu hóa trị được thực hiện đồng thời. Dữ liệu gần đây cũng cho thấy rằng hóa trị giúp ngăn ngừa tái phát ung thư phổi ở bệnh nhân giai đoạn đầu của bệnh.
Các phương pháp điều trị ung thư phổi khác
Các nhà nghiên cứu không ngừng tìm kiếm các cách tốt hơn để điều trị ung thư phổi, giảm bớt triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Các phương pháp hóa trị mới, các dạng xạ trị mới và việc sử dụng các loại thuốc giúp các tế bào ung thư nhạy cảm hơn với xạ trị đang được nghiên cứu.
Xạ phẫu định vị và đốt bằng tần số vô tuyến đã được sử dụng để điều trị ung thư phổi giai đoạn đầu ở những người không thể phẫu thuật. Phương pháp này cũng có thể được sử dụng để điều trị các khối u cục bộ tái phát.
Các loại thuốc nhắm vào một thụ thể yếu tố tăng trưởng (EGFR) như afatinib (Gilotrif), amivantamab-vmiw (Rybrevant), dacomitinib (Vizimpro), erlotinib (Tarceva), mobocertinib (Exkivity), necitumumab (Portrazza) và osimertinib (Tagrisso) và nguồn cung cấp máu của khối u, bevacizumab (Avastin) và ramucirumab (Cyramza), đã cho thấy hoạt động đáng kể trong việc kiểm soát ung thư phổi tiến triển. Gefitinib (Iressa) đã được phê duyệt để điều trị NSCLC di căn và cung cấp một liệu pháp nhắm mục tiêu khác cho các khối u có đột biến EGFR cụ thể.
Atezolizumab (Tecentriq), cemiplimab (Libtayo), durvalumab (Imfinzi), nivolumab (Opdivo) và pembrolizumab (Keytruda) là các thuốc miễn dịch ngăn chặn một protein giữ cơ thể không chống lại ung thư. Những loại thuốc này được tiêm truyền tĩnh mạch mỗi 2-3 tuần.
Các thuốc alectinib (Alecensa), brigatinib (Alunbrig), certinib (Zykadia), crizotinib (Xalkori), và lorlatinib (Lorbrena) được tìm thấy để tấn công một phân tử nhất định, một tái sắp xếp gen ALK, thấy trong một số ung thư phổi. Dabrafenib (Tafinlar) và trametinib (Mekinist) nhắm mục tiêu vào các protein cụ thể trong các khối u có thay đổi ở gen BRAF.
Entrectinib (Rozlytrek) và larotrectinib (Vitrakvi) nhắm vào một gen gọi là kinase tyrosine neurotrophic (NTRK) có trong một số khối u. Adagrasib (Krazati) và sotorasib (Lumakras) được sử dụng để điều trị bệnh nhân người lớn có tái sắp xếp gen KRAS.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: webmd