Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Chữ viết tắt:
- Bệnh viêm ruột (IBD).
- Viêm loét đại tràng (UC)
- Bệnh Crohn (CD)
- Kỹ thuật ghép phân (FMT)
Kỹ thuật ghép phân (FMT) là sự chuyển giao các vi sinh vật trong phân từ những người hiến tặng khỏe mạnh sang những cá nhân mắc một số bệnh nhất định, thông qua các phương pháp kỹ thuật như thụt rửa, ống thông mũi-dạ dày hoặc nasojejunal, và viên nang uống.
1. Kỹ thuật ghép phân là gì?
Kỹ thuật ghép phân FMT lần đầu tiên được sử dụng để điều trị viêm ruột giả mạc (PMC) vào năm 1958, bởi Eiseman và cộng sự. Các nghiên cứu sau đó đã gợi ý rằng PMC là do nhiễm vi khuẩn kỵ khí C. difficile , vi khuẩn này có thể gây ra chứng loạn khuẩn đường ruột. FMT kể từ đó đã dần dần được mở rộng từ giai đoạn phát triển và thử nghiệm sơ bộ để được sử dụng như một phương thức điều trị được chấp thuận cho C. difficile nhiễm trùng (CDI) tại phòng khám, với tỷ lệ thành công gần 92%, do đó thể hiện một phương pháp điều trị hiệu quả so với kháng sinh phổ rộng . Sau đó, FMT đã được sử dụng để điều trị Bệnh viêm ruột (IBD) phức tạp do CDI, và cuối cùng được mở rộng để điều trị cho những bệnh nhân chỉ bị IBD Là một chiến lược điều trị cho IBD, FMT đã được đề xuất trong hơn 25 năm; tuy nhiên, nó chỉ thu hút sự quan tâm nghiên cứu trong bối cảnh IBD trong những năm gần đây. Một số nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh kết quả điều trị đầy hứa hẹn cho những bệnh nhân trong giai đoạn hoạt động nhẹ hoặc trung bình của bệnh.
2. Hiệu quả của kỹ thuật ghép phân
Một đánh giá có hệ thống vào năm 2012 cho thấy, trong số 41 trường hợp điều trị FMT ở bệnh nhân IBD, các triệu chứng thuyên giảm ở 76% bệnh nhân, 76% bệnh nhân có thể chấm dứt dùng thuốc và 63% bệnh nhân có biểu hiện giảm bệnh. Tuy nhiên, sau đó, một phân tích gộp quy mô lớn hơn (307 bệnh nhân người lớn) không cho thấy tỷ lệ hiệu quả cao, báo cáo rằng FMT chỉ giảm nhẹ các triệu chứng lâm sàng của 36% bệnh nhân UC và 50,5% bệnh nhân CD.
Theo một thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi nhỏ, được tiến hành để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của FMT cho bệnh nhân UC, 41,2% bệnh nhân (7/17) đạt được tiêu chí chính so với 25,0% đối chứng (5/20). Các kết quả tương tự cũng thu được trong một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dược, chứng minh hiệu lực của FMT chỉ ở 11 (27%) trong số 41 bệnh nhân UC, với phản ứng bất lợi trong 32 (78%) trường hợp. ; tuy nhiên, hầu hết các tác dụng ngoại ý là các phàn nàn về đường tiêu hóa tự giới hạn. Hơn nữa, dựa trên phân tích trình tự rDNA 16S, sự thuyên giảm lâm sàng do FMT gây ra và cải thiện nội soi có tương quan với việc điều chỉnh hệ vi sinh vật đường ruột trong UC hoạt động.
3. Vai trò của kỹ thuật ghép phân trong bệnh Crohn
Dữ liệu về giảm bệnh Crohn CD do FMT gây ra ít phong phú hơn ở UC, và các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong CD không đầy đủ; chỉ một số nghiên cứu thuần tập nhỏ không có kiểm soát đã được thực hiện, tạo ra kết quả trái ngược nhau. Một nghiên cứu nhãn mở tiềm năng cho thấy FMT từ những người hiến tặng khỏe mạnh đến những người CD đang hoạt động đã làm giảm các triệu chứng ở 58% (11/19) bệnh nhân CD, tất cả đều cho thấy sự gia tăng đa dạng vi sinh vật. Trong một nghiên cứu không kiểm soát khác ở 10 đối tượng để đánh giá FMT, 3 trong số 10 bệnh nhân CD đáp ứng với can thiệp; tuy nhiên, 2 người nhận cho thấy các tác dụng phụ nghiêm trọng, cần có các thử nghiệm đối chứng lớn hơn để xác nhận tính an toàn và hiệu quả của FM.
Tuy nhiên, kết quả của một thử nghiệm FMT tươi lâu dài được thực hiện để đánh giá hiệu quả duy trì giảm triệu chứng của bệnh CD phức tạp do một khối viêm trong ổ bụng cho thấy tỷ lệ giảm triệu chứng lâm sàng là 48,0% (12/25), 32,0% (8 / 25) và 22,7% (5/22), tương ứng ở 6 tháng, 12 tháng và 18 tháng; FMT tươi được lặp lại sau mỗi 3 tháng. Hơn nữa, tác dụng lâm sàng lâu dài của tần suất khác nhau của FMT đối với CD đã được khám phá: Khoảng thời gian điều trị dưới 4 tháng đã được chứng minh là duy trì hiệu quả các lợi ích lâm sàng thu được từ FMT đầu tiên. Tuy nhiên, sự thay đổi năng động của hệ vi sinh vật đường ruột và tương tác phân tử giữa người cho và người nhận trong FMT vẫn chưa được hiểu rõ. Ngoài ra, cần có các nghiên cứu sâu hơn để xác định cường độ xử lý FMT tối ưu và phù hợp với các loại người cho-người nhận tối ưu dựa trên hồ sơ vi sinh vật.
4. Kết quả của các thử nghiệm lâm sàng
Bốn thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược đã được tiến hành trên FMT cho đến nay; trong số này, ba người cho thấy giảm triệu chứng đáng kể so với giả dược. Một nghiên cứu nhãn mở cho thấy FMT có thể áp dụng cho UC hơn bệnh nhân CD. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn thống nhất về lộ trình và tần suất sử dụng FMT trong các thử nghiệm đã được công bố không có sẵn, đây có thể là lý do tiềm ẩn cho sự khác biệt giữa chúng. Do đó, việc thiết lập lộ trình và tần suất sử dụng FMT tối ưu có thể cung cấp nền tảng lý thuyết vững chắc và hướng dẫn thực hành cho ứng dụng lâm sàng của FMT.
Kiểm soát chất lượng phân của người hiến tặng cũng rất quan trọng đối với ứng dụng lâm sàng và để tăng tính ổn định và an ninh của FMT. Gần đây, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã thông báo về nguy cơ tiềm ẩn của các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi sử dụng hệ vi sinh vật trong phân cho FMT, và tuyên bố rằng nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra bởi các sinh vật đa kháng thuốc. Do đó, nguy cơ tiềm ẩn của FMT nhắc nhở các nhà nghiên cứu một lần nữa phải tập trung hơn vào cách tăng tính ổn định và bảo mật của FMT.
Việc triển khai ngân hàng phân được đề xuất là một bước đầy hứa hẹn hướng tới việc thiết lập các tiêu chuẩn thống nhất cho phân của người hiến tặng. Ngân hàng phân của người hiến tặng Hà Lan là ngân hàng phân đầu tiên, được thành lập vào năm 2015, nhằm cung cấp một sản phẩm tiêu chuẩn để điều trị CDI tái phát ở Hà Lan. Sau đó, các chuyên gia FMT đã tổ chức một hội nghị đồng thuận quốc tế về ngân hàng phân, trong đó xác nhận tính khả thi và khả năng cơ động của ngân hàng phân để đẩy nhanh ứng dụng FMT trong các cơ sở lâm sàng. Nói chung, đó là nền tảng vững chắc cho việc khám phá và quảng bá rộng rãi FMT nhằm đảm bảo người nhận nhận được phân chia tài trợ an toàn, đáng tin cậy, kịp thời và công bằng.
5. Vai trò của các thảo dược
Mặc dù một số loại thuốc thảo dược đã được sử dụng trong các cơ sở lâm sàng như một loại thuốc bổ sung và thay thế cho IBD, các phương thức hoạt động dược lý cơ bản của chúng vẫn còn ít người biết đến . Các cơ chế mà các hợp chất thảo dược và đơn thuốc nhắm vào hệ vi sinh vật đường ruột đã được mô tả trong các mô hình IBD thử nghiệm. Những phát hiện này có thể chỉ là phần nổi của tảng băng liên quan đến các cơ chế điều trị tiềm năng của các liệu pháp thảo dược.
6. Kết luận
Các liệu pháp bổ sung nhắm vào hệ vi sinh vật đường ruột là không thể phân biệt được, không tuân theo chương trình điều trị riêng lẻ. Tuy nhiên, thành phần vi sinh vật đường ruột ở những bệnh nhân khác nhau được cá thể hóa rất cao. Do đó, cần phải sàng lọc hệ vi sinh và tiến hành điều tra theo dõi đối với các bệnh nhân IBD khác nhau để theo dõi sự khác biệt của từng cá nhân trong hệ vi sinh vật và thiết kế các liệu pháp dựa trên hệ vi sinh vật được cá nhân hóa để nâng cao tính đặc hiệu và tính chọn lọc của chiến lược điều trị nhắm vào hệ vi sinh vật đường ruột.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo:
- Actis GC, Pellicano R, Fagoonee S, Ribaldone DG. History of Inflammatory Bowel Diseases. J Clin Med. 2019;8:1970. [PubMed] [DOI
- Zhang YZ, Li YY. Inflammatory bowel disease: pathogenesis. World J Gastroenterol. 2014;20:91-99. [PubMed] [DOI]
- Plichta DR, Graham DB, Subramanian S, Xavier RJ. Therapeutic Opportunities in Inflammatory Bowel Disease: Mechanistic Dissection of Host-Microbiome Relationships. Cell. 2019;178:1041-1056. [PubMed] [DOI
- Schirmer M, Garner A, Vlamakis H, Xavier RJ. Microbial genes and pathways in inflammatory bowel disease. Nat Rev Microbiol. 2019;17:497-511. [PubMed] [DOI]
- Yue B, Luo X, Yu Z, Mani S, Wang Z, Dou W. Inflammatory Bowel Disease: A Potential Result from the Collusion between Gut Microbiota and Mucosal Immune System. Microorganisms. 2019;7:440. [PubMed] [DOI]
- Bei Yue, Zhi-Lun Yu, Regulation of the intestinal microbiota: An emerging therapeutic strategy for inflammatory bowel disease, World J Gastroenterol. Aug 14, 2020; 26(30): 4378-4393, [PubMed] [DOI]