Khó khăn trong việc phân biệt giữa bệnh amip đường ruột và bệnh viêm ruột IBD

Viêm đại tràng do amip là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của nhiễm trùng đường ruột xâm lấn do Entamoeba histolytica và là nguyên nhân phổ biến gây tiêu chảy trên toàn thế giới. Vì tỷ lệ lây truyền cao hơn thường liên quan đến tình trạng sức khỏe kém và tiếp xúc với điều kiện mất vệ sinh, các trường hợp được báo cáo ở Châu Âu thường liên quan đến người nhập cư và khách du lịch quốc tế.  

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Viêm đại tràng do amip nên được nghi ngờ ở những bệnh nhân bị tiêu chảy và các yếu tố nguy cơ dịch tễ học 

Viêm đại tràng do amip nên được nghi ngờ ở những bệnh nhân bị tiêu chảy và các yếu tố nguy cơ dịch tễ học tương thích (nhập cư, du lịch nước ngoài hoặc nam giới quan hệ tình dục với nam giới), đặc biệt nếu có một số mức độ suy giảm miễn dịch. Các yếu tố nguy cơ này phải được tính đến trong bất kỳ phương pháp tiếp cận chẩn đoán nào đối với bệnh viêm ruột (IBD) và nên tiến hành tìm kiếm ký sinh trùng phân tích cực trong những trường hợp như vậy để loại trừ chẩn đoán sai hoặc nhiễm amip đồng thời. Điều trị nên bao gồm điều trị chống amip trong lòng ruột để tránh tái phát và ngăn ngừa bệnh lây lan thêm.

Amip thường gây bệnh ở đường ruột
Amip thường gây bệnh ở đường ruột

Khó khăn trong việc phân biệt giữa bệnh amip đường ruột và bệnh viêm ruột IBD

Điều này là do triệu chứng điển hình của cả hai bệnh là tiêu chảy bán cấp dẫn đến sụt cân và đau bụng. Việc phân biệt các bệnh lâm sàng tương tự này trở nên phức tạp do khả năng các thể tư dưỡng amip hoặc các đặc điểm bệnh viêm ruột tương ứng sẽ không được nhìn thấy trong sinh thiết. Trong trường hợp xấu nhất, chẩn đoán nhầm viêm đại tràng do amip là bệnh viêm ruột sau đó điều trị bằng corticosteroid có thể gây tử vong. Một đánh giá có hệ thống gần đây kết luận rằng khả năng nhiễm trùng E. histolytica luôn phải được xem xét trước khi dùng corticosteroid, đặc biệt là ở những bệnh nhân sống ở các vùng lưu hành hoặc những người có tiền sử đi lại. Chẩn đoán và điều trị sớm là điều cần thiết để tránh tiến triển thành viêm đại tràng cấp tính. Việc sàng lọc bệnh amip là cơ hội để sàng lọc thêm bệnh nhiễm giun lươn ở những bệnh nhân có tiền sử nguy cơ dịch tễ, đặc biệt là ở những bệnh nhân dùng corticosteroid và/hoặc điều trị ức chế miễn dịch được coi là có nguy cơ cao mắc hội chứng tăng nhiễm trùng.

Nhiễm trùng amip xâm lấn cho thấy tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột khi so sánh với dân số nói chung. Điều này cho thấy liệu pháp chống amip theo kinh nghiệm nên được khuyến nghị trong các trường hợp bệnh viêm ruột dai dẳng hoặc tái phát, đặc biệt là ở các khu vực lưu hành.

Vai trò các xét nghiệm chẩn đoán trong chẩn đoán viêm đại tràng do amip

Đối với chẩn đoán viêm đại tràng do amip, các kỹ thuật hiện tại bao gồm kính hiển vi, phát hiện kháng nguyên, huyết thanh học, kỹ thuật phân tử và nội soi đại tràng kết hợp với xét nghiệm mô học. Kết quả chẩn đoán tốt nhất thu được bằng cách kết hợp xét nghiệm huyết thanh học hoặc xét nghiệm kháng nguyên, cùng với việc xác định ký sinh trùng trong mẫu phân hoặc các vị trí ngoài ruột. Việc xác định E. histolytica trong phân chỉ bằng xét nghiệm kính hiển vi trực tiếp có thể dẫn đến tỷ lệ đáng kể kết quả dương tính giả. 

Trong khi xét nghiệm kính hiển vi thông thường trên một mẫu phân duy nhất cho thấy độ nhạy rất thấp (25%). Tuy nhiên, độ nhạy có thể tăng lên 80% bằng cách xét nghiệm tối thiểu ba mẫu vào những ngày riêng biệt. Hơn nữa, E. histolytica không thể phân biệt được với E. dispar hoặc E. moshkovskii (thường được coi là amip không gây bệnh) khi xét nghiệm kính hiển vi trực tiếp, khiến việc chẩn đoán xác định E. histolytica trở nên khó khăn. Do đó, các cơ sở để thực hiện ít nhất một xét nghiệm cụ thể nữa, đặc biệt là xét nghiệm kháng nguyên, phải có sẵn trong mọi phòng xét nghiệm. 

Các nghiên cứu thực địa so sánh trực tiếp các kỹ thuật phản ứng chuỗi polymerase (PCR) với nuôi cấy phân hoặc xét nghiệm phát hiện kháng nguyên để chẩn đoán nhiễm trùng E. histolytica cho thấy rằng ba phương pháp này có hiệu quả như nhau. Kháng thể kháng amip trong huyết thanh đã được báo cáo có ở tới 90% bệnh nhân bị nhiễm trùng E. histolytica có triệu chứng. 

Tuy nhiên, một nhược điểm của xét nghiệm huyết thanh là bệnh nhân vẫn dương tính trong nhiều năm sau khi nhiễm trùng, khiến việc phân biệt nhiễm trùng mới với nhiễm trùng cũ trở nên khó khăn ở những khu vực trên thế giới có tỷ lệ huyết thanh dương tính cao. Điều này càng chứng minh thêm cho việc dựa vào sự kết hợp các phương pháp để chẩn đoán căn bệnh này. Theo tài liệu, chẩn đoán vi sinh vật học đối với viêm đại tràng do amip có thể gây khó khăn nhưng, xét đến kết quả của chúng tôi, chẩn đoán được thực hiện tốt nhất bằng cách kết hợp các triệu chứng tương thích cùng với việc xác định ký sinh trùng trong phân.

Tài liệu tham khảo

1. Bercu TE, Petri WA, Behm JW. Viêm đại tràng do amip: hiểu biết mới về bệnh sinh và điều trị . Curr Gastroenterol Rep 2007; 9 :429  

2. Haque R, Huston CD, Hugues M, et al. Bệnh amip . N Engl J Med 2003; 348 : 1565 10.1056/NEJMra022710  

3. Petri WA Jr, Mann BJ, Haque R. Giao diện đắng ngọt của ký sinh trùng và vật chủ: tương tác lectin-carbohydrate trong quá trình xâm nhập của ký sinh trùng Entamoeba histolytica vào người . Annu Rev Microbiol 2002; 56 :39–64. 10.1146/annurev.micro.56.012302.160959.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe