Đại dịch 1918: Virus H1N1

Đại dịch cúm năm 1918 được cho là đại dịch bệnh kinh hoàng nhất bởi nó đã gây ra tử vong cho ít nhất 50 triệu người trên toàn thế giới. Các bác sĩ lâm sàng và các nhà khoa học thời đó đã vật lộn với nhiều điều chưa biết và những điều gây thêm sự nhầm lẫn rằng căn bệnh này do vi khuẩn chứ không phải virus. Phải mất 30 năm sau, mọi người mới hiểu đại dịch cúm năm 1918 đã lây nhiễm 30% dân số thế giới là do virus H1N1.

Bởi mức độ ảnh hưởng của nó, nên đại dịch năm 1918 được gọi là “Mẹ của tất cả các đại dịch”. Đồng thời nó tiếp tục truyền cảm hứng cho nghiên cứu về nguồn gốc và mối quan hệ giữa virus cúm năm 1918 và các virus cúm khác.

1. Virus H1N1 là gì?

Virus cúm A (H1N1) là một thành viên của gia đình Orthomyxoviridae (một nhóm virus RNA). Virus cúm A được chia thành các phân nhóm chủ yếu dựa trên hai loại kháng nguyên bề mặt (protein ngoại lai) là hemagglutinin (H) và neuraminidase (N). Do đó, virus H1N1 đại diện cho một nhóm của cúm A. Loại này được phân biệt thành các chủng dựa trên các biến thể nhỏ trong chuỗi RNA.

Virus H1N1 chịu sự thay đổi liên tục của kháng nguyên. Do đó, sự tiến hóa nhanh chóng của virus do đột biến gen mã hóa các protein kháng nguyên H và N. Sự biến đổi kháng nguyên tạo ra các chủng mới của virus gây bệnh cúm. Đồng thời, sự tiến hóa của virus được tạo điều kiện thuận lợi bởi các động vật như lợn và chim, vì chúng đóng vai trò là ổ chứa các chủng virus cúm A.

Khi một con lợn hoặc chim bị nhiễm đồng thời các loại cúm A khác nhau, việc tái tổ hợp di truyền có thể xảy ra. Tái tổ hợp đại diện cho một quá trình khác theo đó các chủng cúm A mới có thể được tạo ra. Các chủng cúm H1N1 lưu hành liên tục trong các quần thể người trên toàn thế giới và do đó, nó sẽ liên tục phát triển và lẩn tránh hệ thống miễn dịch của người. Vì vậy, đây là nguyên nhân chính gây ra đại dịch H1N1.

2. Đại dịch cúm năm 1918 do virus H1N1

Đại dịch cúm năm 1918 là đại dịch nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Nó được gây ra bởi một loại virus H1N1 với gen có nguồn gốc từ chim. Mặc dù không có sự đồng thuận phổ quát về nguồn gốc của virus, nhưng nó đã lan rộng trên toàn thế giới trong giai đoạn từ 1918 đến 1919.

Cũng trong cùng thời gian này, Thế chiến thứ nhất đã diễn ra. Các điều kiện của Thế chiến thứ nhất (quá đông và hành quân toàn cầu) đã giúp dịch cúm năm 1918 lan rộng. Sự tổn thương của những người trẻ tuổi khỏe mạnh, thiếu vắc-xin và thiếu phương pháp điều trị đã tạo ra một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng lớn. Người ta đã ước tính rằng khoảng 500 triệu người hoặc một phần ba dân số thế giới bị nhiễm virus loại này. Số người chết ước tính ít nhất là 50 triệu người trên toàn thế giới và với khoảng 675,000 người xảy ra ở Hoa Kỳ. Tỷ lệ tử vong cao ở trẻ em, những người ở độ tuổi từ 20-40 và trên 65.


Virus cúm H1N1 (màu đỏ)
Virus cúm H1N1 (màu đỏ)

Diễn biến của đại dịch cúm do virus H1N1 năm 1918 được thể hiện qua các mốc lịch sử dưới đây:

  • Tháng 4 năm 1917, Mỹ tham gia thế chiến thứ nhất với 378,000 binh sĩ phục vụ vũ trang.
  • Tháng 6 năm 1917, một dự thảo được thiết lập để tăng số lượng binh sĩ. Do đó, quân đội bắt đầu đào tạo tân binh tại 32 trại lớn, mỗi trại chứa 25,000 đến 55,000 binh sĩ.
  • Tháng 3 năm 1918, bùng phát bệnh giống như cúm được phát hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Hơn 100 binh sĩ tại trại Funston ở Fort Riley, Kansas bị bệnh cúm. Trong vòng một tuần, số ca mắc cúm là rất nhiều. Hoạt động rời rạc của bệnh cúm lan truyền không đều khắp Hoa Kỳ, Châu Âu và có thể cả Châu Á trong sáu tháng sau đó.
  • Tháng 4 năm 1918, lần đầu tiên đề cập đến cúm xuất hiện trong một báo cáo y tế công cộng hàng tuần vào ngày 5 tháng 4. Báo cáo thông báo cho các quan chức của 18 trường hợp nghiêm trọng và 3 trường hợp tử vong ở Haskell, Kansas.
  • Tháng 5 năm 1918, hàng trăm ngàn binh sĩ di chuyển qua Đại Tây Dương mỗi tháng khi họ được triển khai cho thế chiến thứ nhất.
  • Tháng 9 năm 1918, làn sóng cúm thứ hai xuất hiện tại Camp Devens - một trại huấn luyện của Quân đội Hoa Kỳ ngay bên ngoài Boston và tại một cơ sở hai quân ở Boston.

Giữa tháng 9 và tháng 11, ở Hoa Kỳ xảy ra đợt cao điểm cúm thứ hai. Làn sóng thứ hai này rất nguy hiểm và là nguyên nhân gây ra hầu hết các trường hợp tử vong do đại dịch. Uỷ ban Y tế thành phố New York bổ sung cúm vào danh sách các bệnh phải báo và yêu cầu tất cả các trường hợp cúm phải được cách ly tại nhà hoặc trong bệnh viện thành phố. Đến cuối tháng 9, hơn 14,000 ca cúm được báo cáo tại Camp Devens, tương đương với khoảng một phần tư của toàn bộ trại huấn luyện và có khoảng 757 người tử vong.


Dịch cúm năm 1918
Dịch cúm năm 1918

  • Tháng 10 năm 1918, virus gây đại dịch cúm do virus H1N1 năm 1918 giết chết khoảng 195,000 người Mỹ trong tháng 10.

Vào mùa thu năm 1918, Hoa Kỳ gặp phải tình trạng thiếu y tá chuyên nghiệp nghiêm trọng, do việc triển khai một số lượng lớn y tá đến các trại quân đội ở Hoa Kỳ và nước ngoài. Chicago của Hội chữ thập đỏ Hoa Kỳ đưa ra lời kêu gọi khẩn cấp cho các tình nguyện viên giúp đỡ y tá. Philadelphia bị ảnh hưởng nặng với virus cúm đại dịch, hơn 500 tử thi đang chờ chôn cất. Các nhà máy kho lạnh được sử dụng làm nhà xác tạm thời và một nhà sản xuất xe đẩy tặng 200 thùng đóng gói để sử dụng làm quan tài. Chicago, cùng với nhiều thành phố khác trên khắp Hoa Kỳ đã đóng cửa các nhà hát, các rạp chiếu phim, trường học ban đêm và cấm các cuộc tụ họp công cộng.

Hội đồng Y tế San Francisco, yêu cầu bất kỳ người nào phục vụ công chúng phải đeo khẩu trang và đưa ra khuyến nghị mạnh mẽ cho tất cả cư dân nên đeo khẩu trang ở nơi công cộng.

Thành phố New York báo cáo sự suy giảm 40% năng suất của nhà máy đóng tàu do bệnh cúm vào giữa giữa thế chiến thứ nhất

  • Tháng 11 năm 1918, Sự kết thúc của thế chiến thứ nhất làm cho bệnh cúm quay trở lại khi mọi người ăn mừng Ngày đình chiến và binh lính bắt đầu xuất ngũ.

Các quan chức của thành phố Salt Lake đặt các biển kiểm dịch ở cửa trước và cửa sau của 2,000 ngôi nhà nơi cư dân bị cúm.

Vào cuối thế chiến thứ nhất, quân đội Hoa Kỳ đã tăng quy mô từ 378,000 binh sĩ vào tháng 4 năm 1918 lên 4.7 triệu binh sĩ.

  • Tháng 12 năm 1918, các quan chức y tế công cộng bắt đầu các chương trình giáo dục và công khai về sự nguy hiểm của triệu chứng ho và hắt hơi hoặc những bất cẩn khi xử lý chất thải của mũi.

Uỷ ban của Hiệp hội Y tế công cộng Hoa Kỳ khuyến khích các cửa hàng và nhà máy sắp xếp giờ mở cửa và cho mọi người đi bộ để làm việc khi có thể, thay vì sử dụng phương tiện giao thông công cộng để ngăn chặn sự quá tải.


Đại dịch cúm năm 1918 giết chết khoảng 195,000 người Mỹ
Đại dịch cúm năm 1918 giết chết khoảng 195,000 người Mỹ

  • Tháng 1 năm 1919, một đợt cúm thứ ba xảy ra vào mùa đông và mùa xuân năm 1919, giết chết nhiều người hơn nữa. Làn sóng của dịch cúm thứ ba lắng xuống vào mùa hè.

Tại San Francisco có khoảng 1,800 trường hợp nhiễm cúm và 101 trường hợp tử vong được báo cáo trong năm ngày đầu tiên của tháng một. Nhiều công dân San Antonio bắt đầu phàn nàn rằng các trường hợp cúm mới đã được báo cáo và điều này cho thấy lại một đợt dịch cúm khác được phát triển.

706 trường hợp mắc cúm và 67 trường hợp tử vong được báo cáo ở New York gây ra nỗi sợ hãi về sự tái phát nghiêm trọng của bệnh cúm. Các uỷ viên của Bệnh viện thành phố Boston yêu cầu Thị trưởng cung cấp một khoản ngân sách đặc biệt 3,000 đô là để nghiên cứu và điều trị cúm.

  • Tháng 2 năm 1919, cúm dường như bị diệt trừ ở New Orleans khi số ca mắc bệnh được báo cáo giảm xuống. Đồng thời, Illinois thông qua dự luật để tạo ra một khóa học kéo dài một năm để trở thành một y tá thực hành, nỗ lực này để giải quyết tình trạng thiếu điều dưỡng khi đại dịch tiếp tục.
  • Tháng 4 năm 1919, tại Hội nghị Hòa bình Versailles, trong khi đàm phán kết thúc Thế chiến thứ nhất với các nhà lãnh đạo thế giới khác, Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson ngã gục. Một số nhà sử học suy đoán ông yếu đi là do cúm-hiện vẫn còn tràn lan ở Paris.

Nguồn tham khảo: cdc.gov; nationalgeographic.com

XEM THÊM:

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe