Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Giải trình tự bộ gen, thông tin sinh học ( ví dụ:, sự phong phú tương đối) của hệ vi sinh vật kết hợp đã tạo ra một cuộc cách mạng trong cách chúng ta nghĩ về cơ thể “con người” về sức khỏe và bệnh tật. Sự tương tác giữa vi khuẩn đường ruột và hệ thống miễn dịch của vật chủ đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh đường tiêu hóa, bao gồm cả những bệnh ảnh hưởng đến thực quản.
Mặc dù tương đối ổn định, có một số yếu tố có thể phá vỡ sự cân bằng mong manh giữa hệ vi sinh vật thực quản (vi sinh vật thực quản) và vật chủ. Những thay đổi này được cho là do tuổi tác, chế độ ăn uống, kháng sinh và sử dụng thuốc khác, vệ sinh răng miệng, hút thuốc và / hoặc biểu hiện của các sản phẩm kháng sinh (vi khuẩn) bởi hệ thực vật khác. Những tác động này có thể dẫn đến chứng loạn khuẩn dai dẳng, từ đó làm tăng nguy cơ viêm tại chỗ, viêm toàn thân và cuối cùng là tiến triển của bệnh.tức là axit). Các bằng chứng mới nổi cũng cho thấy vi sinh vật thực quản đóng một vai trò chính trong cơ chế bệnh sinh của bệnh bằng cách kích thích phản ứng sinh miễn dịch mà cuối cùng lan truyền dòng chảy viêm.
1. Hệ vi sinh vật đường ruột có mối liên quan mật thiết với bệnh lý thực quản dạ dày
Trong hai thập kỷ qua, trình tự gen 16S rRNA đã được sử dụng để xác định đặc điểm và so sánh các vi sinh vật thực quản (vi sinh vật thực quản) của những người khỏe mạnh với những bệnh nhân mắc bệnh thực quản bao gồm bệnh trào ngược dạ dày thực quản (viêm thực quản trào ngược), Barrett thực quản (thực quản của Barrett), ung thư biểu mô tuyến thực quản (ung thư biểu mô tuyến thực quản), viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan (EoE), và rối loạn nhu động thực quản. Phân tích sự khác biệt về thành phần giữa các vi sinh vật khỏe mạnh và rối loạn sinh học trong thực quản đã cung cấp thêm thông tin chi tiết về cơ chế bệnh sinh của viêm thực quản trào ngược và các di chứng liên quan cùng với các bệnh lý liên quan khác.
2. Mối liên quan giữa chế độ ăn uống và thành phần của hệ vi sinh vật thực quản dạ dày
Các yếu tố chế độ ăn uống ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật đại tràng khi còn nhỏ (bú sữa mẹ so với sữa công thức) và khi trưởng thành (ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật đại tràng với những thay đổi dinh dưỡng đa lượng trong thời gian ngắn). Với sự tập trung cụ thể vào hệ vi sinh vật hệ vi sinh vật trong dạ dày thực quản , chế độ ăn uống có liên quan đến sự phát triển của các bệnh thực quản như thực quản của Barrett, ung thư biểu mô tuyến thực quản và ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản (ESCC). Đặc biệt, tiêu thụ các loại rau lá và họ cải, cũng như trái cây sống có liên quan đến giảm nguy cơ thực quản của Barrett và ung thư biểu mô tuyến thực quản, trong khi tiêu thụ thịt đỏ có liên quan đến tăng nguy cơ.
3. Sữa mẹ đóng một vai trò lớn trong sự phát triển của hệ vi sinh vật đường tiêu hóa
Trong giai đoạn đầu đời, việc bú sữa mẹ, bú sữa công thức và cho ăn thức ăn đặc đóng một vai trò lớn trong sự phát triển của hệ vi sinh vật đường tiêu hóa. Mặc dù cần điều tra cụ thể hơn để đánh giá các tác động cụ thể đối với vi sinh vật thực quản , nhưng có khả năng xảy ra những điểm tương đồng trong tiến trình do các yếu tố giống nhau. Sữa mẹ chủ yếu bao gồm các vi khuẩn Corynebacterium, Ralstonia, Staphylococcus, Streptococcus, Serratia, Pseudomonas, Propionibacterium, Sphingomonas và Bradyrhizobiaceae ngoài các oligosaccharides trong sữa.
4. Các nghiên cứu nói gì?
Tác động của việc bú sữa mẹ đối với hệ vi sinh vật đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh đã được nhấn mạnh trong hai nghiên cứu cho thấy trẻ bú sữa công thức có tỷ lệ Bifidobacterium và Lactobacillus spp thấp hơn và tỷ lệ Clostridiales và Proteobacteria cao hơn khi so sánh với trẻ bú mẹ. Hơn nữa, trẻ bú sữa công thức có độ đa dạng vi sinh thấp hơn sau năm đầu đời so với trẻ bú mẹ. Một số nghiên cứu dịch tễ học khác đã gợi ý rằng cho con bú có vai trò bảo vệ chống lại bệnh hen suyễn, bệnh tự kỷ và bệnh tiểu đường loại 1, đồng thời cho thấy mối liên quan thấp hơn giữa các bệnh viêm và tự miễn dịch. Như đã nêu trước đó, thành phần phát sinh loài dao động đáng kể trong 3 năm đầu tiên của cuộc đời trước khi phát triển thành hình tượng giống trưởng thành và ổn định hơn. Sự thay đổi này có thể cho phép trẻ sơ sinh được trang bị tốt hơn để xử lý việc chế biến một chế độ ăn uống lành mạnh hơn.
5. Nhiều vấn đề vẫn đang được làm rõ
Ở người lớn, hệ vi sinh vật hệ vi sinh vật trong dạ dày thực quản và mối quan hệ với chế độ ăn uống vẫn đang được điều tra. Trọng tâm của các nghiên cứu ở đây sẽ là chế độ ăn uống và mối quan hệ của nó với bệnh thực quản để làm nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo có thể có trong tương lai về vai trò của hệ vi sinh vật hệ vi sinh vật trong dạ dày thực quản . Có một số khó khăn, đặc biệt là với các vấn đề gây nhiễu và thiết kế nghiên cứu, khi tương quan các yếu tố chế độ ăn uống ở người lớn mắc bệnh thực quản. Do đó, hầu hết các tài liệu hiện có về chế độ ăn uống và thực quản của Barrett hoặc ung thư biểu mô tuyến thực quản đều dựa trên các nghiên cứu bệnh chứng trong đó các mối liên quan nghịch từ nhỏ đến trung bình đã được báo cáo với chế độ ăn ít trái cây và rau (rau xanh, lá và họ cải). Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng trái cây và rau quả, chứa nhiều chất chống oxy hóa, phytosterol và các chất khác, có thể ức chế sự hình thành ung thư bằng cách khử gốc tự do hoặc bằng cách ngăn chặn sự hình thành các hợp chất N-nitroso trong dịch vị và đường hô hấp. Các nghiên cứu bệnh chứng khác đã chỉ ra mối liên quan với chế độ ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn và tăng nguy cơ ung thư thực quản, có thể do thịt chế biến là nguồn chính của nitrit và nitrosamine.
6. Chế độ ăn ảnh hưởng đến tỉ lệ ung thư thực quản
Với khả năng có nhiều tương tác giữa các chất dinh dưỡng đa lượng cụ thể, các nghiên cứu khác đã chuyển sang xem xét các chế độ ăn kiêng để thiết kế nghiên cứu dễ dàng hơn. Họ phát hiện ra rằng chế độ ăn Địa Trung Hải có liên quan nghịch với cả thực quản của Barrett và ung thư biểu mô tuyến thực quản, trong khi "chế độ ăn phương Tây", tiêu thụ nhiều thịt và ít trái cây và rau quả, dường như làm tăng nguy cơ mắc các bệnh này. Mặc dù mối quan hệ giữa chế độ ăn uống trái cây, rau quả, cũng như thịt đỏ và thịt chế biến gần đây đã được liên quan nhiều hơn, nhưng cần phải đánh giá thêm về sự tương tác của các chế độ ăn này và thành phần hệ vi sinh vật hệ vi sinh vật trong dạ dày thực quản .
7. Chất xơ trong chế độ ăn cũng ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật trong dạ dày thực quản
Một nghiên cứu đặc biệt xem xét mối quan hệ của chế độ ăn uống với hệ vi sinh vật trong dạ dày thực quản đã đánh giá những bệnh nhân có lượng chất xơ tổng thể cao so với lượng chất béo cao và phát hiện ra rằng chất xơ trong chế độ ăn nhưng không ăn chất béo có liên quan đến vi sinh vật thực quản riêng biệt. Đặc biệt, việc tăng lượng chất xơ có liên quan đáng kể đến việc tăng lượng Firmicute tương đối , bao gồm cả Streptococcus spp. Và giảm mức độ phong phú tương đối của vi khuẩn gram âm nói chung. Ăn ít chất xơ có liên quan đến việc gia tăng sự phong phú tương đối của một số hệ thực vật gram âm, bao gồm Prevotella, Neisseria và Eikenella spp. Những phát hiện này cung cấp một lựa chọn điều trị bằng chế độ ăn uống tiềm năng để ngăn ngừa hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh thực quản bằng cách giảm tiếp xúc với mức độ ảnh hưởng của vi khuẩn gram âm cao hơn, và do đó làm giảm cảm ứng của dòng thác viêm do vi khuẩn gram âm- lipopolysaccharide gây ra.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.