Viêm tụy cấp (AP) trong thai kỳ không phổ biến nhưng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi. Các nguyên nhân nổi bật nhất của AP, do tuổi sinh nở ngày càng tăng, tỷ lệ thừa cân/béo phì tăng và hàm lượng chất béo trong chế độ ăn uống
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Tổng quan
Viêm tụy cấp (AP) trong thai kỳ không phổ biến nhưng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi. Các nguyên nhân nổi bật nhất của AP, do tuổi sinh nở ngày càng tăng, tỷ lệ thừa cân/béo phì tăng và hàm lượng chất béo trong chế độ ăn uống, bao gồm sỏi mật và rối loạn lipid máu-tăng triglyceride máu. Cường cận giáp nguyên phát (PHPT) trong thai kỳ rất hiếm gặp, với tỷ lệ mắc được báo cáo là 1,4%. Biến chứng cho mẹ và thai nhi/trẻ sơ sinh xảy ra ở lần lượt 67% và 80% các trường hợp không được điều trị. Biến chứng cho mẹ bao gồm sỏi thận, AP, nôn nghén nặng khi mang thai, tiền sản giật và các cơn tăng canxi máu.
Giải phẫu học tuyến giáp và tuyến cận giáp
Tuyến giáp là tuyến nội tiết lớn nhất của cơ thể, nằm ở phần trước của cổ, ở trước các vòng sụn khí quản trên và hai ben thanh quản, ngang mức các đốt sống cổ 5, 6, 7 và ngực 1. Là tuyến có nhiều mạch máu, có màu nâu đỏ, nặng khoảng 30g. Tuyến giáp ở phụ nữ thường to hơn nam giới và to lên trong thời kỳ kinh nguyệt và thai nghén. Còn gọi là tuyến lạc, có từ 2-6, thường là 4 tuyến nhỏ, to bằng hạt đậu, mỗi bên có 2 tuyến (một trên, một dưới), nằm dọc theo bờ trong mặt sau thuỳ bên của tuyến giáp, nằm trong các trẻ của bao giáp. Tuyến có kích thước trung bình dài 6 mm, rộng 3-4 mm, dày 1-2 mm nặng khoảng 50 mô và được bọc trong một vỏ riêng mầu vàng nâu (phân biệt với tuyến giáp mầu nâu đỏ) tuy nhiên vị trí của tuyến có thể thay đổi. Tuyến cận giáp trên nằm ngang mức sụn nhẫn ở chỗ nối 1/3 trên và giữa mỗi thuỳ bên. Tuyến cận giáp dưới nằm cách cực dưới thuỳ bên tuyến giáp khoảng 1,5 cm về phía trên. Nhánh nối của hai động mạch giáp trên và dưới nằm dọc theo bờ sau thuỳ bên tuyến giáp, có liên quan mật thiết với các tuyến cận giáp và là mốc để tìm tuyến này.
Cường tuyến cận giáp nguyên phát
Cường cận giáp nguyên phát gây ra phát sinh từ u tuyến cận giáp sản xuất quá mức hoặc ít gặp hơn là tăng sản tuyến cận giáp hoặc ung thư biểu mô, đặc trưng bởi các dấu hiệu và triệu chứng tăng canxi huyết. Bệnh chủ yếu xảy ra lẻ tẻ ở phụ nữ trên 50 tuổi và thường không có triệu chứng. Ở 3%-5%, bệnh xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn như một phần của hội chứng tân sinh nội tiết đa dạng. Do đó, mặc dù cường cận giáp nguyên gây ra ở phụ nữ mang thai nên nhanh chóng điều tra tình trạng tăng canxi huyết theo hội chứng và xét nghiệm di truyền, nhưng điều này hiếm khi được thực hiện trong thực hành lâm sàng. Hầu hết bệnh nhân cường cận giáp nguyên phát không mang thai có canxi huyết thanh từ 1 đến 1,5 mg/dL (0,25 đến 0,375 mmol/L) cao hơn giới hạn bình thường trên, kèm theo mức PTH tăng cao hoặc không bình thường (không bị ức chế). Ngược lại, mức canxi ở phụ nữ mang thai mắc PHPT được báo cáo là cao hơn nhiều và những mức cao hơn 2,85 mmol/L tương quan với khả năng biến chứng ở mẹ và thai nhi cao hơn. Các biểu hiện lâm sàng của cường cận giáp nguyên gây ra rất đa dạng và bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến tăng canxi huyết ở đường tiêu hóa, thần kinh cơ, thận và tâm lý, có thể bị bỏ qua trong thời kỳ mang thai và do đó, trì hoãn chẩn đoán chính xác hoặc xác định mức canxi. Do hiếm gặp, AP do cường cận giáp nguyên gây ra gây ra trong thời kỳ mang thai là một thách thức về chẩn đoán và điều trị
Tỷ lệ mắc bệnh viêm tuỵ cấp
Viêm tuỵ cấp do cường cận giáp nguyên phát gây ra trong thai kỳ cực kỳ hiếm. Các tác giả đã hồi cứu y văn, thu thập được 54 trường hợp, là số ca mắc bệnh lý này cao nhất trong thai kỳ. Tỷ lệ mắc AP chung trong thai kỳ ước tính khoảng 1 trên 1000-10000 ca mang thai. Tỷ lệ mắc AP do cường cận giáp nguyên phát gây ra không thể xác định được do tính cực kỳ hiếm và dữ liệu chưa biết về các nguyên nhân khác gây AP trong thai kỳ ở những giai đoạn và quốc gia này.
Sinh lý bệnh viêm tuỵ cấp
Hầu hết các trường hợp viêm tuỵ cấp là kết quả của u tuyến cận giáp. Triệu chứng bắt đầu sau 20 tuần thai kỳ, tương tự như các nguyên nhân khác thường gặp hơn của viêm tuỵ cấp (sỏi mật, tăng triglycerid máu). Về mặt sinh lý, PTH trong thai kỳ giảm xuống mức bình thường thấp trong tam cá nguyệt đầu tiên và tăng lên mức bình thường trung bình khi đủ tháng. Điều này theo sau những phát hiện rằng viêm tuỵ cấp xảy ra sau 20 tuần, mặc dù tiết PTH của u tuyến có thể hoàn toàn độc lập. Tăng áp lực trong ổ bụng khi thai kỳ tiến triển có thể không làm tăng khả năng mắc viêm tuỵ cấp như trong viêm tuỵ cấp đường mật do chèn ép đường mật.
Biểu hiện lâm sàng của viêm tuỵ cấp
Biểu hiện lâm sàng của viêm tuỵ cấp do cường cận giáp nguyên phát gây ra bao gồm một loạt các triệu chứng từ buồn nôn, nôn, nôn nghén, đau bụng cấp, tiền sản giật, tăng huyết áp và thay đổi hành vi đến mất ý thức. Cường cận giáp nguyên phát được xác nhận trước khi thụ thai đã được mô tả trong 2 trường hợp, trong khi PHPT có thể không được chẩn đoán biểu hiện dưới dạng viêm tuỵ cấp, tăng canxi máu và/hoặc sỏi thận, tất cả đều gợi ý về cường cận giáp nguyên phát không được chẩn đoán, xuất hiện trong bốn và bảy trường hợp mang thai được báo cáo.
Chẩn đoán viêm tuỵ cấp
Viêm tuỵ cấp liên quan đến cường cận giáp nguyên phát chủ yếu được chẩn đoán trong thời kỳ mang thai, bắt đầu từ tuần thứ 20 của thai kỳ. Trong 1 nghiên cứu hồi cứu y văn, thu thập được 54 trường hợp viêm tuỵ cấp liên quan đến cường cận giáp nguyên phát. Trong 4 trường hợp, các lần mang thai trước đó bị biến chứng do viêm tuỵ cấp, dẫn đến sảy thai nhiều lần. Nồng độ canxi trung bình là 3,5 mmol/L và PTH trung bình là 384 pg/mL. Dữ liệu về vitamin D (25-OH-D) đã được báo cáo trong 13 trường hợp và giá trị trung bình là 52,81 nmol/L. Siêu âm cổ là phương pháp chẩn đoán hình ảnh đầu tiên và phát hiện bệnh lý tuyến cận giáp ở 34 bệnh nhân (62,96%). Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác là chụp cắt lớp 99 mTc-sestamibi (dương tính ở 8/10 trường hợp) và chụp CT/MRI cổ (dương tính ở 8/10 trường hợp). Phát hiện siêu âm âm tính nhưng chụp cắt lớp 99 mTc-sestamibi dương tính được báo cáo ở 3 (5,55%) bệnh nhân và phát hiện siêu âm âm tính nhưng chụp CT/MRI dương tính về tuyến cận giáp hoạt động quá mức ở 1 (1,85%) bệnh nhân. Ở 3 bệnh nhân, không có phương pháp chụp ảnh nào hữu ích trong việc phát hiện tuyến cận giáp hoạt động quá mức.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
1. Mądro A. Pancreatitis in Pregnancy-Comprehensive Review. Int J Environ Res Public Health. 2022;19
2. Kelly TR. Primary hyperparathyroidism during pregnancy. Surgery. 1991;110:1028-33; discussion 1033.
3. McCarthy A, Howarth S, Khoo S, Hale J, Oddy S, Halsall D, Fish B, Mariathasan S, Andrews K, Oyibo SO, Samyraju M, Gajewska-Knapik K, Park SM, Wood D, Moran C, Casey RT. Management of primary hyperparathyroidism in pregnancy: a case series. Endocrinol Diabetes Metab Case Rep. 2019;2019.
4. Augustin G, Lai Q, Cigrovski Berkovic M. Primary hyperparathyroidism-induced acute pancreatitis in pregnancy: A systematic review with a diagnostic-treatment algorithm. World J Gastroenterol 2024; 30(32): 3755-3765