Chẩn đoán bệnh lý dạ dày do thuốc (DIG) nên dựa trên việc xác định tổn thương dạ dày theo trình tự thời gian do sử dụng thuốc, sau đó hồi phục hoặc giảm rõ rệt các dấu hiệu bệnh lý dạ dày sau khi ngừng thuốc. Về vấn đề này, việc ghi chép bệnh sử kỹ lưỡng, bao gồm cả bệnh sử, cùng với việc làm rõ các dấu hiệu trước đó là một trong những lý do đầu tiên để tìm kiếm chẩn đoán trong trường hợp bệnh lý dạ dày do thuốc.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Các triệu chứng lâm sàng của bệnh lý dạ dày do thuốc rất đa dạng. Thông thường, bệnh nhân mắc bệnh lý dạ dày do thuốc có thể không có triệu chứng hoặc có các triệu chứng nhẹ có thể bị lu mờ bởi các triệu chứng của bệnh tiềm ẩn, điều này có nghĩa là khó đánh giá hoặc phát hiện kịp thời sự hiện diện của bệnh lý dạ dày do thuốc. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có thể bị khó tiêu, cũng như các triệu chứng lâm sàng cho thấy các bộ phận khác của đường tiêu hóa có liên quan. Cuối cùng, bệnh nhân mắc bệnh lý dạ dày do thuốc có thể có các triệu chứng nghiêm trọng hơn, bao gồm đau dữ dội hoặc diễn biến phức tạp với tình trạng thiếu máu, hoặc chảy máu rõ ràng và thủng liên quan đến loét.
Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý dạ dày do thuốc khi khám thực thể không đặc hiệu và thường chỉ cho thấy các dấu hiệu của bệnh tiềm ẩn được điều trị bằng thuốc gây tổn thương dạ dày tá tràng. Trong một số trường hợp, có thể có đau vùng thượng vị, và trong các trường hợp diễn biến phức tạp, da nhợt nhạt và có niêm mạc nhìn thấy được, hạ huyết áp và nhịp tim nhanh bù trừ là phổ biến.
Chẩn đoán tổn thương dạ dày do thuốc độc tế bào
Thuốc kìm tế bào bao gồm một nhóm thuốc chống khối u tương đối không đồng nhất về mặt cấu trúc hóa học và đặc tính dược động học; do đó, dữ liệu về tỷ lệ mắc bệnh lý dạ dày do thuốc và cơ chế phát triển, diễn biến lâm sàng và các kiểu hình thái và nội soi của nó khác nhau đối với từng loại thuốc trong nhóm này. Trong nhiều tài liệu, lượng dữ liệu lớn nhất liên quan đến bệnh lý dạ dày do thuốc liên quan đến việc sử dụng mycophenolate mofetil (MMF).
1. Dịch tễ học
Bệnh lý dạ dày và các tổn thương loét và xói mòn niêm mạc dạ dày và tá tràng xảy ra ở 40–50% bệnh nhân dùng MMF, trong khi thủng và chảy máu xảy ra ở 3–8% các trường hợp, thường là trong 6 tháng đầu sau khi bắt đầu điều trị bằng MMF.
2. Các yếu tố rủi ro
Lượng MMF hấp thụ là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với các tổn thương loét và xói mòn niêm mạc dạ dày, với tỷ lệ chênh lệch là 1,83 (95% CI 1,02–3,29, p = 0,043), trong khi nguy cơ tăng lên khi kết hợp liệu pháp dựa trên MMF với các thuốc ức chế tế bào khác và/hoặc glucocorticosteroid.
3. Cơ chế gây tổn thương dạ dày
Cơ chế của bệnh lý dạ dày do thuốc liên quan đến thuốc kìm tế bào vẫn chưa rõ ràng. Người ta cho rằng tác dụng gây hại là do ức chế quá trình tái tạo tế bào ở niêm mạc và gây chết tế bào do các chất chuyển hóa của thuốc. Độc tính trực tiếp của acyl glucuronide, một sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa MMF, đối với niêm mạc dạ dày đã được mô tả. Người ta cũng đã xác định rằng các tế bào tiếp xúc với MMF biểu hiện mối liên quan với rối loạn chức năng của bộ khung tế bào do hàm lượng protein có trong nó giảm: vinculin, actin và tubulin.
4. Biểu hiện lâm sàng
Khi dùng MMF, 45–80% bệnh nhân bị chán ăn, đau bụng, buồn nôn và nôn. Ở 40–50% bệnh nhân, tác dụng phụ ở đường tiêu hóa là lý do chính khiến phải điều chỉnh liều, thay đổi phác đồ dùng thuốc hoặc ngừng liệu pháp ức chế miễn dịch.
5. Hình ảnh nội soi
Thông thường, trong các trường hợp ban đỏ và phù nề niêm mạc dạ dày, nhiều tổn thương xói mòn niêm mạc được phát hiện. Trong một số trường hợp, sự phát triển của loét dạ dày và tá tràng khổng lồ (kích thước lớn hơn 5 cm) được mô tả.
6. Kiểm tra mô học
Những thay đổi hình thái đặc trưng ở niêm mạc dạ dày so với quá trình tiêu thụ tế bào bao gồm thoái hóa hyaline của các tế bào ở lớp dưới niêm mạc và lớp cơ và trong trường hợp liều lượng lớn, tế bào bị không bào hóa, thay đổi hoại tử và bong tróc biểu mô.
Bệnh lý dạ dày liên quan đến MMF được đặc trưng bởi sự suy yếu về cấu trúc niêm mạc với sự thâm nhiễm viêm và phù nề của lớp niêm mạc dạ dày, sự phì đại của các tuyến và tăng hoạt động apoptosis của biểu mô, ít thường xuyên dẫn đến những thay đổi giống với những thay đổi được quan sát thấy trong bệnh Crohn.
Tài liệu tham khảo
1. Sugano K., Tack J., Kuipers E.J., Graham D.Y., El-Omar E.M., Miura S., Haruma K., Asaka M., Uemura N., Malfertheiner P., et al. Kyoto global consensus report on Helicobacter pylori gastritis. Gut. 2015;64:1353–1367. doi: 10.1136/gutjnl-2015-309252.
2. Douthwaite A.H., Lintott G.A. Gastroscopic observation of the effect of aspirin and certain other substances on the stomach. Lancet. 1938;232:1222–1225. doi: 10.1016/S0140-6736(00)78970-7.