Chẩn đoán GERD trong các trường hợp có biểu hiện điển hình và không điển hình (Phần 1)

Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Biểu hiện không điển hình phổ biến nhất của GERD có thể bao gồm các triệu chứng tai, mũi và họng (ENT), phổi (ho mãn tính hoặc hen suyễn), hoặc các triệu chứng tim (đau ngực không do tim). Do đó, GERD nên được xem xét mạnh mẽ trong chẩn đoán phân biệt bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình khi các chẩn đoán thay thế đã được bác sĩ chuyên khoa khác loại trừ (bác sĩ phẫu thuật tai mũi họng, bác sĩ tim mạch, bác sĩ hô hấp, bác sĩ dị ứng).

1. Liệu pháp điều trị theo kinh nghiệm

Ở những bệnh nhân có tiền sử gợi ý GERD không biến chứng biểu hiện bằng triệu chứng điển hình là ợ chua và / hoặc nôn trớ có thể được điều trị theo kinh nghiệm. Các triệu chứng điển hình đáp ứng với sự ức chế axit cung cấp thêm bằng chứng cho việc tiếp xúc với axit thực quản bệnh lý và thật hợp lý khi giả định chẩn đoán GERD ở những bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp thích hợp. Mặt khác, các triệu chứng điển hình không cải thiện cần có các xét nghiệm thêm để chứng minh sự tồn tại của GERD và đánh giá để có chẩn đoán thay thế. Tương tự, những bệnh nhân có biểu hiện không điển hình hoặc đau ngực không do tim nên được xem xét để kiểm tra chức năng thực quản trước khi điều trị theo kinh nghiệm.

Tuy nhiên, xét nghiệm theo kinh nghiệm này chống chỉ định ở những bệnh nhân có các triệu chứng báo động như khó nuốt, sụt cân và chảy máu theo năm khuyến nghị của Hiệp hội Bác sĩ Tiêu hóa Bệnh viện Ý (AIGO).

2. Nội soi tiêu hoá trên

Nội soi tiêu hoá trên cho phép đánh giá niêm mạc thực quản ở bệnh nhân GERD và lấy mẫu sinh thiết của các tổn thương liên quan (ví dụ như chuyển sản Barrett, chỗ hẹp thực quản hoặc khối u). Có những hạn chế với việc sử dụng nội soi tiêu hoá trên trong chẩn đoán GERD. Bệnh trào ngược ăn mòn (ERD) xảy ra ở một số ít bệnh nhân bị GERD (<30%), trong khi phần lớn trong số họ được bao gồm trong kiểu hình bệnh trào ngược không ăn mòn (NERD), được đặc trưng bởi các triệu chứng trào ngược điển hình, chủ yếu là ợ chua, không có tổn thương niêm mạc thực quản có thể nhìn thấy trên nội soi tiêu hoá trên. Bệnh nhân có các triệu chứng GERD không điển hình thường có tỷ lệ viêm thực quản qua nội soi thấp. Do đó, nội soi tiêu hoá trên không cần thiết để chẩn đoán và chủ yếu được thực hiện để đánh giá các biến chứng liên quan đến GERD và các chẩn đoán thay thế. Những bệnh nhân có các triệu chứng báo động, chẳng hạn như thiếu máu, giảm cân và khó nuốt, hoặc tiền sử mắc bệnh GERD mãn tính và từ 50 tuổi trở lên nên được nội soi kiểm tra thực quản Barrett .

Hình ảnh nội soi của trào ngược dạ dày thực quản
Hình ảnh nội soi của trào ngược dạ dày thực quản

3. X quang cản quang với thuốc cản quang Baryt

X quang Baryt trong lịch sử được coi là một phần của phương pháp chẩn đoán tiềm năng ở bệnh nhân có các triệu chứng thực quản, bao gồm cả GERD. Mặc dù chụp ảnh thực quản với thuốc cản quang Baryt được thực hiện tốt với chất cản quang kép có thể phát hiện các dấu hiệu của viêm thực quản, nhưng độ nhạy tổng thể của xét nghiệm này là cực kỳ thấp. Việc phát hiện ra sự trào ngược với thuốc cản quang Baryt phía trên đường vào lồng ngực có hoặc không có các thao tác khiêu khích bao gồm thử nghiệm xi phông nước làm tăng độ nhạy của thử nghiệm với thuốc cản quang Baryt ; tuy nhiên, không đủ để được khuyến cáo như một xét nghiệm chẩn đoán mà không có chứng khó nuốt .

Trào ngược thực quản dạ dày được nhìn thấy trên X quang
Trào ngược thực quản dạ dày được nhìn thấy trên X quang

4. Đo áp suất thực quản

Đo áp suất thực quản hiện được coi là xét nghiệm tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán rối loạn chức năng thực quản có thể gây ra các triệu chứng như khó nuốt và đau ngực. Tuy nhiên, nó đã cho thấy khả năng hạn chế trong việc chẩn đoán GERD. Với sự ra đời của áp kế độ phân giải cao, giờ đây có thể đánh giá chính xác hơn về nhu động thực quản. Hơn nữa, các thước đo mới đã được phát triển để khảo sát hình thái và chức năng của chỗ nối dạ dày thực quản (EGJ). Đặc biệt, chức năng rào cản chống trào ngược của chỗ nối dạ dày thực quản hiện có thể được đánh giá bằng cách đánh giá tích phân co lại của chỗ nối. Ngoài ra, giãn cơ vòng thực quản dưới thoáng qua có thể được xác định chính xác hơn với áp kế độ phân giải cao. Giảm áp lực cơ thắt thực quản dưới cũng như sự hiện diện của bất thường về nhu động đều không đủ đặc hiệu để chẩn đoán GERD.

5. Đo nồng độ Bilirubin trong 24 giờ

Bilimeter cho phép đo quang phổ nồng độ bilirubin trong thực quản do trào ngược dạ dày tá tràng (trào ngược dạ dày tá tràng).

Mặc dù vai trò của mật trong cơ chế bệnh sinh của tổn thương niêm mạc thực quản là chưa rõ và có một tỷ lệ cao của cả trào ngược axit và không axit, một số tác giả khuyến cáo nên theo dõi đồng thời pH và đo bilan.

Các chỉ định chính để theo dõi kép là những bệnh nhân có các triệu chứng GERD điển hình đáp ứng kém với liệu pháp PPI.

Bilitec 2000 là một hệ thống đo quang phổ mới. Thật không may, công nghệ này chỉ là một biện pháp bán định lượng để phát hiện bệnh lý trào ngược dạ dày tá tràng. Các nghiên cứu xác thực cho thấy rằng thiết bị này đánh giá thấp sự trào ngược mật trong môi trường axit (pH <3,5). Trong các dung dịch có pH <3,5, bilirubin trải qua quá trình đồng phân hóa monome để dimer được phản ánh bằng sự thay đổi bước sóng absorption từ 435 nm đến 400 nm. Vì kết quả đọc Bilitec dựa trên sự phát hiện sự hấp thụ ở bước sóng 470nm, sự thay đổi này đánh giá thấp mức độ trào ngược dạ dày tá tràng. Do đó, các phép đo Bilitec của trào ngược dạ dày tá tràng phải luôn đi kèm với các phép đo đồng thời về mức độ phơi nhiễm axit bằng cách theo dõi độ pH. Hơn nữa, nhiều chất có thể gây ra kết quả dương tính giả bởi Bilitec, vì nó ghi lại một cách bừa bãi bất kỳ chất nào hấp thụ xung quanh 470 nm như heme (tức là trong quá trình gây nôn), porphyrin, carotenoid, riboflavin và các loại thực phẩm khác nhau như cà chua, chuối, cà rốt, củ cải đường, parmesan, pho mát, thịt, trà và cà phê. Ngoài ra, thức ăn rắn có thể cản trở đầu dò và làm giảm độ chính xác của các bản ghi, vì những lý do này nên quy định chế độ ăn lỏng được tiêu chuẩn hóa để cho phép đăng ký. Tuy nhiên, có một hạn chế trong việc đăng ký các mẫu trào ngược dạ dày tá tràng do chế độ ăn kiêng khác và có hàm lượng calo thấp hơn.

Mặc dù phép đo bilirubin bổ sung thêm thông tin có giá trị về bản chất hóa học của vật liệu chảy, nhưng có một số hạn chế không cho phép phát hiện chính xác và chính xác sự khởi phát và tần suất của các đợt trào ngược dạ dày tá tràng.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec thăm khám và điều trị các bệnh lý trào ngược dạ dày thực quản bằng các phương pháp nội - ngoại khoa tối ưu nhất cho bệnh nhân, cả trẻ em và người lớn. Đến với Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, bệnh nhân sẽ nhận được sự thăm khám trực tiếp, tận tình và chuyên nghiệp từ đội ngũ cán bộ y tế giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm.

Nếu có nhu cầu tư vấn và thăm khám tại các Bệnh viện Vinmec thuộc hệ thống Y tế trên toàn quốc, Quý khách vui lòng đặt lịch trên website để được phục vụ.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.


Tài liệu tham khảo

  1. Cesario Silvia,1 Scida Serena, và cộng sự, Diagnosis of GERD in typical and atypical manifestations, Acta Biomed. 2018; 89(Suppl 8): 33–39.
  2. El-Serag Hashem B, et al. “Update on the epidemiology of gastro-oesophageal reflux disease: a systematic review” Gut. 2013 gutjnl-2012. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  3. Vakil Nimish, et al. “The Montreal definition and classification of gastroesophageal reflux disease: a global evidence-based consensus” The American journal of gastroenterology. 2006;101(8):1900. [PubMed] [Google Scholar]4. Vaezi Michael F. “Atypical manifestations of gastroesophageal reflux disease” Medscape General Medicine. 2005;7(4):25. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]5. Lacy Brian E, et al. “The diagnosis of gastroesophageal reflux disease” The American journal of medicine. 2010;123(7):583–592. [PubMed] [Google Scholar]6. Aanen M. C, et al. “Diagnostic value of the proton pump inhibitor test for gastro-oesophageal reflux disease in primary care” Alimentary pharmacology & therapeutics. 2006;24(9):13771384. [PubMed] [Google Scholar]
Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

2.8K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan