This is an automatically translated article.
Maxtecine is a prescription drug used to support the treatment of some cancers. Dosage and specific use of the drug, please refer to the article below.1. What is Maxtecine?
Maxtecine belongs to the group of anti-cancer drugs and acts on the immune system. The drug is available in the form of a solution for injection or infusion. The unit responsible for the production of Maxtecine by the manufacturer Intas Pharm, Ltd - India. The drug is packaged in a box of 1 vial with a capacity of 25ml. The main ingredient of Maxtecine is Epirubicin Hydrochloride 2mg/ml.2. Uses of Maxtecin
Epirubicin Hydrochloride ingredient is commonly used in the treatment of cancers such as stomach cancer, small cell lung cancer, breast cancer, advanced ovarian cancer. Epirubicin when administered via the bladder has been shown to be beneficial in the treatment of diseases such as: papillary transitional cell carcinoma of the bladder, prevention of recurrence of bladder surface cancer after surgery transurethral resection, carcinoma in situ in bladder cancer.3. Recommended dosage and usage of Maxtecine
3.1. Liều gợi ý dùng thuốc Maxtecine Để tránh xảy ra các tác dụng phụ không mong muốn cũng như đạt được kết quả điều trị tốt nhất, liều dùng Epirubicin cần phải được căn cứ vào đáp ứng lâm sàng, gan, thận, tim mạch, huyết học cũng như dung nạp thuốc của bệnh nhân và vào hóa trị liệu, xạ trị đang được sử dụng.
Sử dụng bằng cách truyền tĩnh mạch:
Nếu sử dụng đơn trị Epirubicin thì liều thường dùng là 60 - 90mg/m2 một lần tiêm, dùng liều lặp lại sau 3 tuần. Có thể chia liều này cho 2 - 3 ngày nếu cần. Trường hợp điều trị cho ung thư giai đoạn cuối sẽ dùng 12,5 - 25mg/m2, truyền 1 lần/tuần.
Sử dụng điều trị ung thư vú sau phẫu thuật có hạch nách:
Liều khởi phát khuyến cáo là 100 - 120mg/m2 được tiêm vào ngày đầu tiên của chu kỳ hoặc chia làm 2 liều giống nhau vào ngày thứ nhất và thứ tám của mỗi chu kỳ. Liều lượng trên sẽ lặp lại cách nhau 3 đến 4 tuần. Trong thử nghiệm lâm sàng phác đồ 1 (FEC-100), truyền tĩnh mạch: 100mg/m2 Epirubicin, 500mg/m2 Fluorouracil và 500mg/m2 Cyclophosphamid vào ngày thứ nhất, chu kỳ là 21 ngày và dùng trong 6 chu kỳ. Ở thử nghiệm phác đồ 2 (CEF-120), truyền tĩnh mạch 60mg/m2 Epirubicin và 500mg/m2 Fluorouracil vào ngày thứ nhất và ngày thứ tám của mỗi chu kỳ, kết hợp uống 75mg/m2 Cyclophosphamid vào ngày thứ nhất và ngày thứ 14 của mỗi chu kỳ; chu kỳ dài 28 ngày, liều điều trị kéo dài 6 chu kỳ. Trong thời gian điều trị có thể dùng phối hợp với 1 Fluoroquinolon hoặc Cotrimoxazol để đề phòng nhiễm khuẩn. Kết thúc chu kỳ điều trị đầu tiên cần xem xét điều chỉnh liều dựa vào độc tính ngoài huyết học và lên huyết học. Trong trường hợp kết thúc chu kỳ điều trị mà bệnh nhân có số lượng bạch cầu trung tính < 2,5 x 108/lít (250/mm3), tiểu cầu giảm < 5,0 x 1010/lít (50000/mm3), xuất hiện sốt giảm bạch cầu hoặc nhiễm độc độ 3 hoặc 4 thì liều thuốc chống ung thư cho ngày thứ nhất của chu kỳ tiếp theo chỉ là 75% liều của chu kỳ trước. Ngày đầu tiên của chu kỳ tiếp theo phải hoãn lại cho đến khi số lượng bạch cầu trung tính ít nhất là 1,5 x 109/lít (1 500/mm3), số lượng tiểu cầu ít nhất phải đạt được là 1,0 x 1011/lít (100000/mm3) và nhiễm độc không phải huyết học máu giảm xuống độ 1 hoặc tốt hơn. Đối với bệnh nhân áp dụng phác đồ chia nhỏ 2 lần vào ngày thứ nhất và ngày thứ 8 của chu kỳ thì liều Fluorouracil, Anthracyclin, và Cyclophosphamid vào ngày thứ 8 chỉ bằng 75% liều so với ngày thứ nhất, nếu số lượng bạch cầu trung tính là 1,0 x 109/lít (1000 – 1499/mm3), số lượng tiểu cầu là 7,5 x 1010/lít (75 000 – 100000/mm3). Nếu số lượng bạch cầu trung tính <1,0 x 109/lít (1000/mm3) hoặc số lượng tiểu cầu vào ngày thứ 8 < 7,5 x 1010/lít (75 000/mm3) hoặc bị nhiễm độc không phải huyết học độ 3 hoặc 4 thì không dùng các thuốc này vào ngày thứ 8. Sử dụng điều trị các khối u khác:
Epirubicin thường được sử dụng liều đơn trị và kết hợp với hóa trị liệu khác với liều như sau:
Liều Epirubicin (mg/m2): Liều tiêm vào ngày thứ nhất của chu kỳ 21 ngày hoặc chia làm 3 liều vào ngày thứ nhất, ngày thứ hai, ngày thứ ba của chu kỳ 21 ngày.
Chỉ định đơn liều, liệu pháp kết hợp (trong liệu pháp kết hợp với các thuốc gây độc tế bào khác, liều sử dụng epirubicin nên được giảm theo như trên).
Ung thư buồng trứng: 60 - 90 50 - 100, ung thư dạ dày: 60 – 90 50, ung thư phổi tế bào nhỏ : 120 120
Sử dụng đường dùng truyền vào bàng quang để điều trị ung thư bàng quang:
Truyền nhỏ giọt thuốc vào bàng quang 50mg/tuần trong 50ml dung dịch NaCl 0,9% hoặc nước cất để được dung dịch có nồng độ 0,1%, dùng trong 8 tuần. Nếu xuất hiện dấu hiệu bị viêm bàng quang do hóa chất thì giảm liều mỗi tuần xuống còn 30mg trong 50ml. Với carcinom tại chỗ, nếu dung nạp được thì có thể tăng liều tới 80mg trong 50ml mỗi tuần, để tránh tái phát ở bệnh nhân đã cắt bỏ khối u qua niệu đạo dùng liều 50mg/tuần trong 4 tuần; sau đó 50mg mỗi tháng 1 lần trong 11 tháng. Lưu ý cần giữ dung dịch ở trong bàng quang 1 giờ sau khi được bơm vào.
Không kết hợp xạ trị với các thuốc chống ung thư như epirubicin bởi sẽ làm tăng độc tính lên tế bào. Hoá trị chấm dứt thì mới tiếp tục xạ trị để tránh độc tính chồng lên nhau. Epirubicin làm tăng độc tính của tia xạ lên tế bào, bên cạnh đó dùng epirubicin sau xạ trị có thể gây viêm nhắc lại ở chỗ bị chiếu xạ.
Một số trường hợp đặc biệt:
Người bị suy tủy do điều trị mạnh hoặc ung thư tủy thể thâm nhiễm cần giảm liều epirubicin chu kỳ ban đầu còn 75 – 90mg/m2. Người bị suy gan cần giảm liều, trong thử nghiệm lâm sàng, nồng độ bilirubin huyết thanh 1,2 – 3mg/100 ml, hoặc nồng độ AST gấp 2 – 4 lần. Giới hạn trên của bình thường giảm 50% liều epirubicin ban đầu được khuyến cáo. Nếu nồng độ AST gấp 4 lần giới hạn trên của bình thường hoặc bilirubin > 3 mg/100 ml thì dùng 25% liều ban đầu. Lưu ý không sử dụng cho người bị suy gan nặng. Suy thận nặng với nồng độ creatinin huyết thanh > 5mg/100 ml có thể phải giảm liều, hiện chưa có số liệu nghiên cứu trên người đang được thẩm phân. 3.2. Cách dùng thuốc Maxtecine Thuốc chỉ được dùng khi có chỉ định của bác sĩ, người bệnh tuyệt đối không tự ý sử dụng. Maxtecine dùng bằng đường tiêm tĩnh mạch hoặc đường truyền bàng quang, không được tiêm bắp thịt hoặc dưới da vì kích ứng mô rất mạnh. Người đã được huấn luyện mới được thực hiện pha dịch truyền và cần được tiến hành trong điều kiện vô khuẩn. Quá trình pha dịch truyền phải được tiến hành trong khu vực vô khuẩn riêng, nơi có hệ thống dẫn lưu khí kiểu phiến, bề mặt làm việc nên được bảo vệ bằng nhựa dùng một lần hoặc giấy thấm dùng một lần. Khi sử dụng Epirubicin các nhân viên cần được trang bị các phương tiện bảo vệ như: áo choàng, găng tay, kính bảo hộ và khẩu trang. Tránh để thuốc tiếp xúc với mắt. Nếu chẳng may bị chạm vào mắt thì cần rửa với thật nhiều nước hoặc dung dịch natri clorid 0,9%, sau đó đưa đến bác sĩ kiểm tra. Nếu thuốc tiếp xúc với da thì cần rửa kỹ ngay sau khi tiếp xúc với xà phòng và nước hoặc dung dịch natri bicarbonat, tuy nhiên không sử dụng cọ chà xát chỗ da tiếp xúc. Lưu ý cần rửa tay ngay sau khi tháo găng. Nếu làm rò rỉ hoặc đổ thuốc ra ngoài thì cần xử lý bằng dung dịch natri hypoclorit pha loãng (có 1% clor tự do), nên ngâm trong dung dịch này trước, sau đó rửa lại bằng nước để đạt được hiệu quả tốt nhất. Người đang mang thai không được tiếp xúc với thuốc Maxtecine Cần lưu ý thận trọng khi xử lý các loại vật dụng như kim tiêm, ống tiêm... được sử dụng để hoàn nguyên hoặc pha loãng thuốc, bất kỳ phần thuốc không sử dụng hoặc vật dụng loại bỏ nên được xử lý theo quy định tại bệnh viện. Trước khi sử dụng thuốc cần kiểm tra dung dịch trong lọ có dấu hiệu lạ như đổi màu, vẩn đục,... nếu có thì không sử dụng. Dung dịch thuốc đã pha loãng trong dung dịch NaCl 0,9% hoặc Dextrose 5% thì nên truyền vào tĩnh mạch thay vì trực tiếp thuốc vào tĩnh mạch, thời gian tiêm là từ 3 - 5 phút, nếu truyền tĩnh mạch thì thời gian truyền có thể tới 30 phút. Nhằm tránh thuốc thoát mạch, dung dịch thuốc nên được đưa vào đường truyền tĩnh mạch đang chảy của dung dịch NaCl 0,9% để tiêm sau khi kim truyền đã được đặt đúng vào trong tĩnh mạch, tránh dùng các tĩnh mạch ở xa hoặc tĩnh mạch ở trên khớp. Lưu ý không tiêm vào các tĩnh mạch nhỏ hoặc tiêm nhiều lần tại cùng một tĩnh mạch vì dễ bị gặp hiện tượng xơ cứng. Cẩn trọng không để thuốc bị thoát khỏi mạch. Tốc độ truyền vào khoảng 3 đến 20 phút, phụ thuộc vào liều và thể tích dịch truyền. Nếu xuất hiện nổi ban đỏ dọc theo tĩnh mạch truyền hoặc có cơn bốc hỏa ở mặt thì có thể do tốc độ truyền nhanh và sau đó có thể bị viêm tắc tĩnh mạch hoặc viêm tĩnh mạch tại chỗ. Thuốc có thể thoát mạch mà không gặp triệu chứng đau rát, thậm chí ngay cả khi hút máu qua kim truyền vẫn thấy máu trở về bình thường, nếu thấy có bất kỳ dấu hiệu nào là thuốc thoát mạch thì phải ngừng ngay và tìm chỗ khác để truyền. Thuốc có thể gây buồn nôn nên có thể dùng thêm thuốc chống nôn trước khi dùng. Không cần thiết phải đặc biệt tránh ánh sáng trong khi dùng bởi với nồng độ dùng trong điều trị, epirubicin không bị ánh sáng phân hủy đáng kể, tuy nhiên, với nồng độ thấp < 500 microgam/ml thì thuốc sẽ bị ánh sáng phân hủy nhiều. Có thể pha loãng chế phẩm (trong dãy nồng độ 0,5mg/ml – 2mg/ml) bằng dung dịch dextrose 5% hoặc dung dịch NaCl 0,9% rồi sử dụng theo đường tĩnh mạch. Tuy nhiên, để đảm bảo không bị nhiễm vi sinh vật thì thuốc cần phải được sử dụng ngay sau khi pha, nếu chưa dùng ngay thì phải bảo quản dung dịch sau khi pha ở nhiệt độ từ 2 đến 8 độC với thời gian không quá 12h.
4. Cases of contraindications to the drug Maxtecine
Do not use for people who are allergic or hypersensitive to Epirubicin, Anthracenedione, Anthracycline or other ingredients in the drug. Not for use by pregnant and lactating women. Do not use in patients with a neutrophil count less than 1.5 x 109/liter (1500/mm3). If used intravenously, it is contraindicated in patients with: Prolonged myelosuppression, patients with acute systemic infection, severe liver failure, recent myocardial infarction, severe myocardial failure, severe arrhythmia , cardiomyopathy, acute inflammatory heart disease, previous treatment with maximal cumulative doses of epirubicin or other anthracyclines and anthracenediones, unstable angina. Using the bladder route is contraindicated for people with: Urinary tract infections, invasive tumors entering the bladder, problems related to urinary tract, cystitis, hematuria, bladder contractions small, the volume of urine remaining in the bladder is large.
5. Important notes when using Maxtecine
Đây là thuốc do bác sĩ chuyên khoa chỉ định và giám sát điều trị, bệnh nhân không tự ý sử dụng. Trước khi điều trị bằng thuốc Maxtecine, người bệnh cần phục hồi các triệu chứng độc tính cấp như viêm niêm mạc, giảm bạch cầu trung tính , viêm miệng, giảm tiểu cầu, nhiễm khuẩn. Khi điều trị Epirubicin hydroclorid ở liều cao ≥ 90 mg/m2 mỗi 3 – 4 tuần sẽ gây ra những tác dụng phụ tương tự như khi dùng liều thông thường < 90 mg/m2 mỗi 3 – 4 tuần thì mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc, viêm miệng và giảm bạch cầu trung tính có thể sẽ tăng lên. Chính vì vậy, khi điều trị ở liều cao Epirubicin cần theo dõi đặc biệt các biến chứng lâm sàng có thể xảy ra từ nguyên nhân suy tủy nghiêm trọng. Đối với chức năng tim: Các độc tính tim có thể xảy ra khi điều trị với Anthracyclin, có thể biểu hiện sớm hoặc muộn. Các biểu hiện sớm (cấp tính): chủ yếu là nhịp tim nhanh xoang, các bất thường điện tâm đồ như thay đổi sóng ST-T không đặc hiệu. Nhịp tim nhanh như nhịp nhanh thất, ngoại tâm thu thất, nhịp tim chậm cũng như block nhánh và nhĩ thất đã được báo cáo. Những triệu chứng này không cảnh báo được tiến triển tiếp của độc tính tim muộn và ít quan trọng về mặt lâm sàng, bởi thường là thoáng qua, có thể phục hồi, không cần ngưng điều trị với Epirubicin. Các biểu hiện muộn (chậm xuất hiện): Độc tính tim thường xuất hiện muộn trong quá trình điều trị hoặc từ 2 – 3 tháng sau khi kết thúc điều trị. Một số trường hợp xuất hiện biến cố chậm hơn từ vài tháng đến vài năm đã được báo cáo. Biểu hiện bệnh cơ tim muộn như: giảm phân suất tống máu thất trái hoặc dấu hiệu và triệu chứng của suy tim sung huyết như: phù phổi, nhịp tim nhanh, tim/ gan to, thiểu niệu, tràn dịch màng bụng, khó thở, phù do tư thế, tràn dịch màng phổi, nhịp gallop. Sử dụng anthracyclin là nguyên nhân gây ra suy tim sung huyết gây nguy hiểm tính mạng là dạng bệnh cơ tim nghiêm trọng nhất. Có khả năng suy tim sung huyết tăng nhanh với sự gia tăng tổng liều tích lũy của epirubicin vượt quá 900 mg/m2. Khi điều trị với epirubicin thì cần đánh giá trước chức năng tim và phải theo dõi trong suốt quá trình điều trị để giảm nguy cơ xảy ra suy tim nặng. Việc theo dõi thường xuyên phân suất tống máu thất trái trong quá trình điều trị sẽ giúp giảm nguy có suy tim nặng, cần ngưng sử dụng epirubicin nếu thấy có dấu hiệu của suy tim. Phương pháp định lượng thích hợp để đánh giá chức năng tim (LVFE) là siêu âm tim (ECHO) và chụp mạch xạ hình kiểu nhiều cổng (MUGA). Nên đánh giá chức năng tim ban đầu bằng điện tâm đồ và MUGA hoặc ECHO, đặc biệt là đối với bệnh nhân có yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ nhiễm độc tim, cần đánh giá lại LVEF bằng MUGA hoặc ECHO, đặc biệt khi dùng dẫn chất anthracyclin liều cao, tích lũy. Khuyến cáo cần sử dụng phương pháp đánh giá chức năng tim thống nhất trong suốt quá trình theo dõi. Đặc biệt thận trọng nếu sử dụng Epirubicin với liều cao hơn liều tích lũy là 900 mg/m2 bởi nguy cơ gây bệnh cơ tim. Nguyên nhân gây ra bệnh cơ tim là do dẫn chất Anthracyclin liên quan đến sự giảm điện áp QRS liên tục kéo dài khoảng thời gian tâm thu (PEP) vượt quá giới hạn bình thường và giảm phân suất tống máu (LVEF). Sự thay đổi điện tâm đồ có thể là dấu hiệu của bệnh cơ tim do dẫn chất Anthracyclin gây ra tuy nhiên đây không phải phương pháp đặc hiệu đối với nhiễm độc tim do dẫn chất Anthracyclin. Các nguyên nhân gây độc tim bao gồm bệnh tim mạch thể hoạt động hoặc tiềm ẩn, sử dụng xạ trị đồng thời tại khu vực trung thất/màng ngoài tim hay các dẫn chất Anthracenedion và Anthracyclin trước đó và dùng cùng lúc với các loại thuốc có khả năng gây độc tim hoặc ức chế co bóp cơ tim khác, đặc biệt là các loại thuốc có thời gian bán thải dài, ví dụ như Trastuzumabt, tăng nguy cơ ở người cao tuổi. Ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ và sử dụng liều tích lũy cao cần giám sát chức năng tim chặt chẽ. Tuy nhiên nếu sử dụng Epirubicin ở liều tích lũy thấp hơn cho dù bệnh nhân có yếu tố nguy cơ hay không thì vẫn có thể xảy ra tình trạng nhiễm độc tim. Độc tính của các dẫn chất Anthracenedion hoặc Anthracyclin và Epirubicin có tính chất hiệp đồng. Suy tim ở mức độ trung bình đến nặng thậm chí dẫn đến tử vong được phát hiện ở những bệnh nhân điều trị đơn liệu với Trastuzumab hoặc kết hợp với dẫn chất Anthracyclin như Epirubicin. Không nên kết hợp các dẫn chất Anthracyclin (như Epirubicin) và Trastuzumab, trừ trường hợp có thể theo dõi tình trạng lâm sàng và chức năng tim chặt chẽ. Nếu trước đây bệnh nhân đã điều trị với dẫn chất Anthracyclin thì vẫn có khả năng bị nhiễm độc khi sử dụng Trastuzumab, mặc dù nguy cơ này thấp hơn so với dùng kết hợp đồng thời cả hai. Trastuzumab có thể tồn tại trong vòng tuần hoàn tới 27 tuần sau khi ngưng điều trị nhờ vào thời gian bán thải chậm, khoảng 28 – 38 ngày. Có nguy cơ tăng độc tính tim nếu bệnh nhân điều trị với dẫn chất Anthracyclin như Epirubicin sau khi ngưng sử dụng Trastuzumab. Nếu có thể, sau 27 tuần ngừng điều trị với Trastuzumab thì mới nên dùng tiếp các dẫn chất Anthracyclin. Nếu trường hợp phải dùng trước 27 tuần thì cần theo dõi chức năng tim của bệnh nhân thật chặt chẽ. Quá trình điều trị với Trastuzumab sau khi điều trị với epirubicin mà bệnh nhân xuất hiện triệu chứng suy tim có tiến triển thì cần được chỉ định điều trị suy tim. Tương tự như các thuốc gây độc tế bào khác, Epirubicin có thể gây suy tủy, vì vậy, cần kiểm tra các thông số huyết học trước và trong mỗi chu kì điều trị bằng Epirubicin, bao gồm cả các loại bạch cầu biệt hóa. Giảm bạch cầu hạt (giảm bạch cầu trung tính) và giảm bạch cầu phụ thuộc liều dùng và có thể hồi phục là biểu hiện chính của tình trạng nhiễm độc huyết học do Epirubicin. Đây là độc tính cấp tính hay gặp nhất hạn chế liều dùng khi sử dụng thuốc này. Giảm bạch cầu trung tính và giảm bạch cầu thường nặng hơn khi sử dụng liều cao và giảm thấp nhất vào ngày thứ 10 và 14 sau khi dùng thuốc. Số lượng bạch cầu/bạch cầu trung tính về mức bình thường vào ngày 21 ở đa số các bệnh nhân, bởi đây chỉ là tình trạng thoáng qua. Biến chứng lâm sàng của suy tủy nặng trên như sau: nhiễm khuẩn huyết, sốt, shock nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn, xuất huyết, thiếu oxy mô hoặc tử vong, Ở những bệnh nhân điều trị bằng các dẫn chất Anthracyclin bao gồm cả Epirubicin được báo cáo có bệnh bạch cầu thứ phát có hoặc không có giai đoạn tiền bệnh bạch cầu. Bệnh này thường gặp khi phối hợp với xạ trị, khi bệnh nhân đã được điều trị bằng liều cao các thuốc gây độc tế bào hoặc khi liều Anthracyclin tăng nhanh, sử dụng phối hợp với các thuốc chống ung thư gây phá hủy AND. Bệnh có thể tiềm ẩn từ 1 đến 3 năm. Nghiên cứu ở động vật cho thấy Epirubicin có thể gây đột biến, bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể và ung thư. Epirubicin có thể gây nôn và buồn nôn, có thể sử dụng thuốc chống nôn để giảm tình trạng này. Sau khi sử dụng thuốc, viêm niêm mạc và viêm miệng thường xuất hiện sớm, nếu tình trạng này tăng dần thì có nguy cơ tiến triển thành loét niêm mạc trong vài ngày và đa số sẽ hồi phục vào tuần thứ 3 của quá trình điều trị. Epirubicin được thải trừ chủ yếu qua hệ gan mật vì vậy, cần đánh giá nồng độ của bilirubin toàn phần trong huyết thanh, AST trước và trong quá trình sử dụng epirubicin. Người bệnh bị tăng bilirubin toàn phần hoặc AST có tốc độ thải trừ epirubicin chậm hơn và nguy cơ nhiễm độc tăng cao hơn, vì vậy nên sử dụng liều thấp đối với trường hợp này. Không nên sử dụng epirubicin cho người bị suy gan nặng. Lưu ý kiểm tra nồng độ creatinin huyết thanh trước và trong khi dùng thuốc. Bệnh nhân có nồng độ creatinin huyết thanh > 5 mg/dL thì cần phải điều chỉnh lại liều lượng. Tại vị trí truyền thuốc có thể xảy ra các phản ứng như: xơ cứng tĩnh mạch khi truyền nhiều lần vào một tĩnh mạch hoặc truyền vào tĩnh mạch nhỏ. Cần thực hiện đúng theo các khuyến cáo về cách dùng để giảm thiểu nguy cơ viêm tĩnh mạch huyết khối hoặc viêm tĩnh mạch ở vị trí truyền. Việc thoát mạch dung dịch Epirubicin sau khi truyền có thể gây đau tại chỗ, tổn thương mô như viêm mô tế bào nặng, rộp da và nặng hơn là hoại tử. Nếu xuất hiện dấu hiệu hoặc tình trạng thoát mạch trong quá trình truyền epirubicin thì cần ngừng truyền ngay lập tức. Có thể ngăn chặn hoặc giảm các tác dụng phụ của thoát mạch bằng cách điều trị đặc hiệu như sử dụng Dexrazoxan. Giảm nhẹ tình trạng đau của bệnh nhân bằng cách làm mát và giữ mát vùng da bị thoát dịch, sử dụng acid hyaluronic và DMSO. Cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ ở giai đoạn sau bởi vẫn có nguy cơ bị hoại tử sau vài tuần, nếu bị hoại tử thì phải tiến hành phẫu thuật cắt bỏ. Giống như các loại thuốc gây độc tế bào khác, sử dụng epirubicin được báo cáo sẽ có nguy cơ xuất hiện thuyên tắc huyết khối, kể cả thuyên tắc phổi (một số trường hợp tử vong) hoặc viêm tĩnh mạch huyết khối. Acid uric trong máu có thể tăng lên khi sử dụng epirubicin do làm dị hóa mạnh purin đồng thời làm ly giải các tế bào ung thư nhanh chóng (hội chứng ly giải khối u). Các chuyển hoá bất thường khác cũng có thể xảy ra. Tuy trường hợp trên không thường xảy ra ở người bị ung thư vú nhưng vẫn cần xem xét khả năng xảy ra hội chứng ly giải khối u ở bệnh nhân nhạy cảm và cần kiểm tra nồng độ canxi phosphat, acid uric, creatinin, kali trong máu khi bắt đầu điều trị. Để giúp giảm nguy cơ xảy ra biến chứng của hội chứng ly giải khối u thì cần bổ sung nước, kiềm hóa nước tiểu và dự phòng bằng allopurinol. AUC của epirubicin sẽ tăng lên 50% nếu sử dụng đồng thời với cimetidin vì vậy, cần ngưng sử dụng cimetidin khi điều trị epirubicin. Những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch cần tránh sử dụng các chế phẩm vắc xin chứa vi khuẩn sống hoặc bị giảm hoạt lực bởi các thuốc hóa trị như epirubicin do có thể gây ra tình trạng nhiễm khuẩn nặng, thậm chí tử vong. Các bệnh nhân điều trị với epirubicin có thể sử dụng chế phẩm vắc xin chứa vi khuẩn bị giết hoặc bất hoạt, tuy nhiên, phản ứng với các vắc xin này có thể bị giảm. Epirubicin có thể gây độc trên gen vì vậy, khi sử dụng điều trị bằng thuốc có chứa hoạt chất này cần áp dụng biện pháp tránh thai cần thiết. Sau khi kết thúc điều trị, bệnh nhân nên được tư vấn về di truyền nếu có mong muốn có con. Epirubicin có nguy cơ gây tổn thương mô tinh hoàn và tinh trùng. Tổn thương ADN của tinh trùng có nguy cơ gây vô sinh hoặc bất thường di truyền ở bào thai. Thời gian tác động này chưa có số liệu cụ thể. Khi dùng đường truyền thuốc vào bàng quang có thể gây ra các triệu chứng co thắt bàng quang và viêm bàng quang như tiểu khó, tiểu đêm, tiểu đau, đa niệu, tiểu ra máu, khó chịu bàng quang, hoại tử thành bàng quang; chú ý đặc biệt với trường hợp đặt ống thông tiểu (có thể bị tắc niệu đạo do khối u bàng quang lớn). Trên đây là toàn bộ thông tin về thuốc Maxtecine, người bệnh cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng, tham khảo ý kiến của bác sĩ/ dược sĩ trước khi dùng. Người bệnh tuyệt đối không được tự ý mua thuốc Maxtecine điều trị tại nhà vì có thể sẽ gặp phải tác dụng phụ không mong muốn.