Viêm trực tràng truyền nhiễm là một chẩn đoán ngày càng tăng ở những bệnh nhân có quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Chẩn đoán phân biệt giữa các nguyên nhân truyền nhiễm (C. trachomatis , lậu, HSV và giang mai ) và các nguyên nhân không truyền nhiễm (bệnh viêm ruột và ung thư) là khó khăn trong nhiều trường hợp.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Báo cáo trong y văn về một trường hợp viêm trực tràng do Chlamydia trachomatis
Một người đàn ông 51 tuổi, không có tiền sử bệnh lý liên quan, đã được đưa vào khoa cấp cứu do đi ngoài ra máu đỏ tươi từng đợt và đau ở bụng dưới. Tiền sử tình dục của anh ta đáng chú ý là quan hệ tình dục qua đường hậu môn không được bảo vệ. Các phát hiện trong phòng xét nghiệm bao gồm mức hemoglobin là 12,8 g/dL và protein phản ứng C tăng cao (3,51 mg/dL).
Một vết loét cứng và không đều đã được ghi nhận trong quá trình khám trực tràng bằng ngón tay và nội soi đại tràng sigma bằng ống soi mềm cho phép xác định một vết loét lớn ở giữa trực tràng cũng như loét trực tràng đoạn xa. Không thấy chảy máu đang hoạt động hoặc dấu hiệu chảy máu gần đây. Do đó, viêm trực tràng được coi là nguyên nhân gây chảy máu đường tiêu hóa.
Chẩn đoán phân biệt đã được đưa ra: viêm trực tràng lây truyền qua đường tình dục (thường do Chlamydia trachomatis, Neisseria gonorrhoeae , virus herpes simplex [HSV] và Treponema pallidum ) và bệnh viêm ruột. Viêm trực tràng cấp tính ở nam giới quan hệ tình dục với nam giới (MSM) có quan hệ tình dục qua đường hậu môn thường là bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI).
Do đó, liệu pháp kháng sinh theo kinh nghiệm đối với bệnh lậu và nhiễm chlamydia đã được bắt đầu trên bệnh nhân(ceftriaxone 250 mg tiêm bắp liều duy nhất và doxycycline 200 mg/ngày trong 7 ngày), trong khi chờ kết quả xét nghiệm chẩn đoán.
Mô học gợi ý về tác dụng tế bào học do vi-rút với miễn dịch mô học dương tính đối với HPV-p16. Tế bào học của ống hậu môn âm tính với tổn thương nội biểu mô hoặc ác tính (NILM). Huyết thanh học âm tính với HIV, HAV, HBV và HCV. Xét nghiệm kháng thể đối với kháng thể kháng T. pallidum cho kết quả âm tính.
Tuy nhiên, huyết thanh học đối với C. trachomatis (IgM) không rõ ràng (17 RU/mL).
Xét nghiệm dương tính với C. trachomatis trong sinh học phân tử (phản ứng chuỗi polymerase) từ tăm bông hậu môn đã xác nhận chẩn đoán viêm trực tràng nhiễm trùng. Kết quả âm tính với bệnh lậu và HSV. Xem xét đến xét nghiệm dương tính với C. trachomatis , quá trình điều trị bằng doxicillin được kéo dài đến 3 tuần và điều này dẫn đến việc giải quyết các triệu chứng.
Nội soi hậu môn sau 2 tuần không thấy tổn thương trực tràng. Nội soi hồi tràng thực hiện 3 tháng sau đó xác nhận tổn thương trực tràng đã lành. Không thấy tổn thương nào khác. Bệnh nhân được theo dõi trong 12 tháng và vẫn không có triệu chứng.
Tài liệu tham khảo
1. Bissessor M, Fairley CK, Read T, Denham I, Bradshaw C, Chen M. The etiology of infectious proctitis in men who have sex with men differs according to HIV status. Sex Transm Dis. 2013 Oct;40((10)):768–70.
2. Levy I, Gefen-Halevi S, Nissan I, Keller N, Pilo S, Wieder-Finesod A, et al. Delayed diagnosis of colorectal sexually transmitted diseases due to their resemblance to inflammatory bowel diseases. Int J Infect Dis. 2018 Oct;75:34–8.
3. Santos AL, Coelho R, Silva M, Rios E, Macedo G. Infectious proctitis: a necessary differential diagnosis in ulcerative colitis. Int J Colorectal Dis. 2019 Feb;34((2)):359–62.
4. João Carlos Silva,* . GE Port J. Gastroenterol. Proctite infeciosa por Chlamydia trachomatis : Doenças venéreas em proctologia. Tháng 11 năm 2020; 27(6): 439–440.