Theo dõi hoạt động của bệnh trong bệnh Crohn bằng siêu âm bụng

Siêu âm ruột (IUS) đóng vai trò quan trọng trong việc nhận biết, chẩn đoán và theo dõi nhiều bệnh lý tiêu hóa và ngày càng trở nên quan trọng trong việc quản lý bệnh viêm ruột (IBD). Siêu âm không xâm lấn, không tốn kém, phổ biến rộng rãi và không yêu cầu sử dụng bức xạ ion hóa; do đó, nó được bệnh nhân chấp nhận và dung nạp đặc biệt tốt. 

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Siêu âm cho bệnh nhân IBD yêu cầu đầu dò mảng lồi 3-5 MHz và đầu dò mảng tuyến tính tần số cao hơn từ 5-15 MHz cho phép đánh giá đầy đủ mô hình năm lớp thành của đường tiêu hóa. Hầu hết các phần của ruột già, cũng như các phần chính của ruột non, có thể dễ dàng được hình dung bằng IUS.

Ưu điểm của siêu âm bao gồm đánh giá nhanh độ dày thành ruột, cũng như phân tầng phản ánh những thay đổi trong bệnh lý học mô học ở bệnh Crohn (CD) và viêm loét đại tràng (UC). Lợi thế thứ hai của IUS là hình ảnh hóa mạch máu của ruột bằng siêu âm Doppler màu. Lợi thế lớn thứ ba, so với các phương thức chụp cắt lớp khác, bao gồm hình ảnh trực tiếp về khả năng vận động.

Hình ảnh cắt ngang của động mạch sigma phía trên động mạch chậu (dấu sao) trong viêm loét đại tràng (đầu dò 9 MHz) Dày niêm mạc tăng âm (mũi tên). (B) Hình ảnh nội soi tương ứng của cùng một bệnh nhân trong cùng một tuần
Hình ảnh cắt ngang của động mạch sigma phía trên động mạch chậu (dấu sao) trong viêm loét đại tràng (đầu dò 9 MHz) Dày niêm mạc tăng âm (mũi tên). (B) Hình ảnh nội soi tương ứng của cùng một bệnh nhân trong cùng một tuần

Theo dõi hoạt động của bệnh trong bênh Crohn bằng siêu âm bụng

Các thử nghiệm gần đây đã chứng minh rằng siêu âm ruột có vai trò trong việc theo dõi điểm số bệnh của bệnh Crohn. Người ta đã chứng minh rằng siêu âm ruột có khả năng theo dõi phản ứng với điều trị sinh học. Siêu âm ruột cũng có thể dự đoán kết quả độc lập với các dấu hiệu hoạt động của bệnh khác trong viêm loét đại tràng. 

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không có tiêu chuẩn vàng nào cho hoạt động của IBD và bất kỳ loại phương thức chẩn đoán nào, bao gồm nội soi, MRI, các thông số xét nghiệm hoặc IUS, đều chỉ có thể được sử dụng làm dấu hiệu thay thế trong tình huống này. Chỉ có một số ít nghiên cứu tương đối nhỏ đã đánh giá tính hữu ích của IUS trong việc theo dõi phản ứng điều trị ở bệnh Crohn.

Một nghiên cứu với 21 bệnh nhân đã sử dụng siêu âm để đánh giá độ dày thành ruột và mạch máu hóa sau khi điều trị bằng thuốc chống yếu tố hoại tử khối u (TNF). Trong thử nghiệm này, liệu pháp chống TNF có liên quan đến việc giảm đáng kể độ dày thành ruột, cũng như mạch máu hóa được xác định bằng dòng chảy Doppler. Các thông số siêu âm cho thấy sự cải thiện ở 50% bệnh nhân trong thử nghiệm này. 

Một nghiên cứu nhỏ khác đã sử dụng siêu âm tăng cường độ tương phản (CEUS) để chỉ ra rằng, trong quá trình điều trị chống viêm, những thay đổi trên IUS có mối tương quan đáng kể với CDAI. Một thử nghiệm triển vọng gần đây hơn đã đánh giá các đặc điểm siêu âm ở những bệnh nhân mắc CD sau khi điều trị bằng thuốc sinh học, sử dụng nội soi hồi tràng làm tiêu chuẩn tham chiếu. Trong thử nghiệm này, có thể quan sát thấy sự bình thường hóa các thông số IUS ở 62,8% bệnh nhân, với mối tương quan đáng kể so với nội soi hồi tràng (κ = 0,76, P <0,001).

Một số tác giả cho rằng CEUS có thể hữu ích để đánh giá kết quả điều trị ngay sau khi bắt đầu điều trị bằng thuốc sinh học. Một thử nghiệm đa trung tâm lớn, bao gồm 243 bệnh nhân từ 50 trung tâm ở Đức, gần đây đã được tiến hành để xác định vai trò của IUS trong việc theo dõi đáp ứng điều trị. Trong thử nghiệm này, bệnh nhân bệnh Crohn có đợt bùng phát bệnh cấp tính đã được điều trị chống viêm; hầu hết trong số họ đã được điều trị bằng liệu pháp kháng TNF với mức giảm đáng kể HBI sau ba tháng. 

Hầu như tất cả các thông số siêu âm được xác định trong quá trình IUS, bao gồm độ dày thành ruột, thông số mạch máu hóa, tăng sinh xơ mỡ và các thông số khác, đều cho thấy mức giảm đáng kể (P <0,001 ở tất cả các nhóm) tại các vị trí khác nhau. Sự cải thiện các thông số siêu âm tương quan với các thông số xét nghiệm như CRP. Những dữ liệu này có thể chứng minh rằng siêu âm thực sự là một phương pháp rất hữu ích để sử dụng trong việc theo dõi bệnh nhân CD và xác định phản ứng điều trị sớm.

Thay đổi trong kết quả siêu âm sau khi điều trị chống viêm (đầu dò 9 MHz) Kết hợp hình ảnh trước điều trị (A) với kết quả thực tế (B) tại cùng một vị trí sau 2 tuần điều trị bằng thuốc chống yếu tố hoại tử khối u trong bệnh Crohn cấp tính: giảm độ dày thành ruột và phù nề niêm mạc 
(mũi tên)
Thay đổi trong kết quả siêu âm sau khi điều trị chống viêm (đầu dò 9 MHz) Kết hợp hình ảnh trước điều trị (A) với kết quả thực tế (B) tại cùng một vị trí sau 2 tuần điều trị bằng thuốc chống yếu tố hoại tử khối u trong bệnh Crohn cấp tính: giảm độ dày thành ruột và phù nề niêm mạc (mũi tên)

Đánh giá quá trình chữa lành xuyên thành ở bệnh bênh Crohn

Dựa trên các nghiên cứu hiện tại, siêu âm ruột có vẻ là một phương pháp có giá trị để đánh giá quá trình chữa lành xuyên thành ở bệnh bệnh Crohn. Một nghiên cứu gần đây đã đánh giá các thông số định lượng để xác định mức độ tổn thương ruột trong quá trình viêm ruột mãn tính và quá trình chữa lành xuyên thành ở bệnh bệnh Crohn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những thay đổi sâu sắc của tình trạng viêm xuyên thành trong bệnh bệnh Crohn mãn tính hiếm khi trở lại bình thường hoàn toàn, ngay cả sau khi điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch hoặc tác nhân sinh học. 

Trong một nghiên cứu gần đây liên quan đến 66 bệnh nhân, quá trình chữa lành xuyên thành được xác định bằng IUS chỉ có thể được phát hiện ở 25% bệnh nhân dùng thuốc sinh học, trong khi quá trình chữa lành niêm mạc được phát hiện ở 38%. Tuy nhiên, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê. Dựa trên các nghiên cứu gần đây, IUS ngày càng trở thành phương pháp được lựa chọn trong việc theo dõi bệnh nhân CD để theo dõi quá trình chữa lành xuyên thành đáp ứng với điều trị.

Tài liệu tham khảo 

1. Strobel D, Goertz RS, Bernatik T. Diagnostics in inflammatory bowel disease: ultrasound. World J Gastroenterol. 2011;17:3192–3197. [ 

2. Calabrese E, Petruzziello C, Onali S, et al. Severity of postoperative recurrence in Crohn’s disease: correlation between endoscopic and sonographic findings. Inflamm Bowel Dis. 2009;15:1635–1642 

3. Torsten Kucharzik, Klaus Kannengiesser, and Frauke Petersen. The use of ultrasound in inflammatory bowel disease. Ann Gastroenterol. 2017; 30(2): 135–144.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe