Sử dụng siêu âm trong đánh giá và tiên lượng bệnh viêm ruột

Siêu âm ruột đã được chứng minh là có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, cũng như giá trị dự đoán dương tính và âm tính cao, trong việc phát hiện hoặc loại trừ hoạt động viêm ruột ở IBD. Những lợi thế rõ ràng của siêu âm ruột so với các phương thức chụp ảnh khác bao gồm tính không xâm lấn, khả dụng nhanh chóng và chi phí thấp.

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

(A) Hình ảnh cắt ngang của bệnh viêm đại tràng Crohn cấp tính ở đại tràng sigma (đầu dò 9 MHz) Phân tầng mờ của thành ruột dày (mũi tên) và tăng sinh xơ mỡ rõ rệt (dấu sao). (B) Hình ảnh nội soi tương ứng của cùng một bệnh nhân trong cùng một tuần
(A) Hình ảnh cắt ngang của bệnh viêm đại tràng Crohn cấp tính ở đại tràng sigma (đầu dò 9 MHz) Phân tầng mờ của thành ruột dày (mũi tên) và tăng sinh xơ mỡ rõ rệt (dấu sao). (B) Hình ảnh nội soi tương ứng của cùng một bệnh nhân trong cùng một tuần

Đánh giá sự tái phát bệnh sau phẫu thuật

Trong nhiều thập kỷ, nội soi đã là tiêu chuẩn vàng trong việc xác định tái phát sau phẫu thuật của bệnh Crohn (bệnh viêm ruột mạn tính). Điểm Rutgeerts đã được chứng minh là điểm hoạt động nội soi hợp lệ cho tái phát sau phẫu thuật. Gần đây hơn, siêu âm cũng đã được chứng minh là có khả năng phát hiện tái phát sau phẫu thuật. 

Một mối tương quan tốt với điểm Rutgeerts có thể được xác định bằng cách sử dụng SICUS, với giá trị dự báo dương tính là 87% để phát hiện tái phát bệnh sau phẫu thuật và một mối tương quan tốt với điểm Rutgeerts (r = 0,67, P = 0,0001). Một nghiên cứu gần đây hơn cho thấy độ nhạy trong việc phát hiện tái phát sau phẫu thuật bằng IUS thông thường là 89,7%, có thể tăng lên tới 98% bằng cách sử dụng siêu âm tăng cường độ tương phản. Thông tin chi tiết về thông nối đã được thực hiện là bắt buộc để giải thích các phát hiện siêu âm theo cách hữu ích.

Trong thử nghiệm POCER gần đây, để loại trừ tình trạng viêm ruột có liên quan sau phẫu thuật, calprotectin cũng đã được chứng minh là có mối tương quan tốt với hoạt động của bệnh nội soi trong bối cảnh sau phẫu thuật, có giá trị dự báo âm tính cao lên tới 91%. Trong tương lai, sự kết hợp của IUS cộng với calprotectin có thể là một thông số có giá trị để xác định tình trạng tái phát sau phẫu thuật ở bệnh nhân bênh Crohn. Điều này phải được đánh giá thêm trong các thử nghiệm triển vọng. 

Giá trị tiên lượng của IUS trong bệnh CD

Nhiều tác giả đã cố gắng xác định giá trị tiên lượng của siêu âm đối với sự tái phát của bệnh Crohn và phát triển các dấu hiệu và đặc điểm tiên lượng của IUS trong IBD. Người ta đã chứng minh rằng IUS có khả năng xác định nguy cơ tái phát theo cách rất đặc hiệu và nhạy cảm. Giá trị tiên lượng thậm chí có thể được tăng cường bằng cách thực hiện SICUS với việc sử dụng thuốc cản quang đường uống, cho phép làm căng ruột non và ruột già tốt hơn và có thể cải thiện giá trị tiên lượng của siêu âm.

Gần đây nhất, việc sử dụng CEUS đã được chứng minh là một phương pháp có giá trị để dự đoán kết quả điều trị ở bệnh nhân mắc bệnh CD, bằng cách đo lưu lượng máu đến ruột bằng CEUS động. 

Mối liên quan ở trực tràng trong bệnh Crohn (bệnh viêm ruột mãn tính)

Siêu âm quanh hậu môn và siêu âm qua trực tràng (TRUS)

Bệnh rò hậu môn thường xảy ra ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn , với tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 10% tại thời điểm chẩn đoán lên đến 20% sau 20 năm diễn biến bệnh. Chẩn đoán bệnh lý hậu môn và phân loại bệnh lý này thường được thực hiện bằng cách kết hợp các phát hiện lâm sàng và hình ảnh. Ngoài việc tiến hành thủ thuật dưới gây mê như một tiêu chuẩn vàng đã mô tả trước đây, MRI và TRUS hiện đang được sử dụng làm phương pháp phát hiện và phân loại bệnh lý hậu môn liên qua bệnh Crohn (bệnh viêm ruột mạn tính). 

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng độ chính xác của TRUS tương đương với MRI trong bệnh lý rò hậu môn (87% đối với MRI và 91% đối với TRUS). Những dữ liệu này đã được xác nhận trong một phân tích tổng hợp không tìm thấy sự khác biệt có liên quan giữa độ nhạy của MRI và TRUS (87%, 95% CI 0,63-0,96 so với 87%, 95% CI 0,70-0,95), trong khi độ đặc hiệu cho MRI và TRUS khác nhau đôi chút (69% đối với MRI và 43% đối với TRUS). Nhược điểm của TRUS là thực tế là nó xâm lấn và gây khó chịu.

Vị trí quanh hậu môn của đầu dò 10 MHz. Áp xe quanh hậu môn với các vệt tăng âm (mũi tên) trong bệnh Crohn
Vị trí quanh hậu môn của đầu dò 10 MHz. Áp xe quanh hậu môn với các vệt tăng âm (mũi tên) trong bệnh Crohn

Mặc dù MRI của khung chậu là một phương thức đã được thiết lập, nhưng việc tiếp cận kịp thời và chi phí vẫn còn là vấn đề. Vì cả hai phương pháp đều yêu cầu thiết bị đắt tiền và các nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, siêu âm quanh hậu môn đã được đề xuất như một phương pháp thay thế có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong bênh Crohn quanh hậu môn. 

Trong một nghiên cứu gần đây điều tra 46 bệnh nhân mắc bệnh Crohn quanh hậu môn, sử dụng TRUS làm tiêu chuẩn vàng, 53 lỗ rò được phát hiện bằng TRUS đã được phân loại chính xác bằng siêu âm quanh hậu môn trong 45 trường hợp, đạt độ nhạy là 84,9%. Siêu âm quanh hậu môn cho thấy 10 ổ áp xe quanh hậu môn, tất cả đều có thể được xác nhận bằng TRUS, và TRUS không tìm thấy ổ áp xe nào nữa. 

Độ nhạy của siêu âm quanh hậu môn trong bênh Crohn quanh hậu môn có hoặc không có thuốc cản quang cũng đã được các nhà nghiên cứu khác chứng minh. Do đó, siêu âm quanh hậu môn có vẻ là một phương pháp đơn giản và không đau để phát hiện và phân loại các lỗ rò hoặc ổ áp xe quanh hậu môn và trực tràng - âm đạo theo thời gian thực ở những bệnh nhân bị CD quanh hậu môn.

Siêu âm ở bệnh nhân viêm loét đại tràng 

Giá trị của siêu âm trong chẩn đoán ban đầu và theo dõi viêm loét đại tràng, so với bệnh Crohn, đã được đánh giá ít hơn nhiều. Một phần lý do có thể là, đặc biệt là trong viêm loét đại tràng phía bên trái nhẹ, thành ruột đôi khi không dày lên và tình trạng viêm chỉ giới hạn ở niêm mạc. 

Đặc điểm đặc trưng nhất của tình trạng viêm trong viêm loét đại tràng  là thành ruột dày lên, như đã đề cập trước đó. Ngược lại với bệnh Crohn, tình trạng dày lên của thành ruột chủ yếu là tỷ lệ thuận và sự phân tầng của thành ruột thường được bảo tồn. Mặc dù không có gì ngạc nhiên khi tình trạng dày lên của niêm mạc là dấu hiệu đặc trưng của tình trạng viêm, nhưng việc hình dung tình trạng dày lên của lớp dưới niêm mạc cũng rất hữu ích. Sự dày lên tăng âm của lớp dưới niêm mạc phản ánh tình trạng phù nề trong quá trình viêm hoạt động ở viêm loét đại tràng. 

Mặc dù thực hành lâm sàng cho thấy sự dày lên của thành ruột có thể được xác định là dấu hiệu sớm của tình trạng viêm ở viêm loét đại tràng, tình trạng này sẽ biến mất sau khi tình trạng viêm ruột được giải quyết, nhưng có một sự thiếu hụt đáng ngạc nhiên về dữ liệu trong tài liệu mô tả quá trình dày lên của thành ruột sau khi điều trị, và đặc biệt là quá trình cải thiện theo thời gian. Giá trị chính xác của IUS trong quá trình theo dõi bệnh nhân mắc UC hoạt động hiện đang được nghiên cứu trong một thử nghiệm đa trung tâm ở Đức, bao gồm 50 trung tâm IBD khác nhau.

Dữ liệu ban đầu cho thấy siêu âm Doppler của động mạch mạc treo tràng trên và dưới có thể được sử dụng để đánh giá hoạt động của bệnh trong UC, cũng như để xác định nguy cơ tái phát. Tuy nhiên, cho đến nay, kỹ thuật này chỉ được sử dụng ở rất ít trung tâm và kết quả vẫn chưa được các nhà nghiên cứu khác xác nhận.

Các đặc điểm siêu âm khác trong IBD hữu ích trong bệnh Crohn (bệnh viêm ruột mạn tính) , bao gồm xác định mạch máu hóa và đánh giá các cấu trúc xung quanh như tăng sinh xơ mỡ, có vẻ ít hữu ích hơn trong viêm loét đại tràng. Tuy nhiên, trong viêm loét đại tràng hoạt động nghiêm trọng, các dấu hiệu viêm ngoài thành, chẳng hạn như tăng sinh xơ mỡ, báng bụng hoặc thậm chí là vệt mạc treo, có thể được xác định trong các tình huống cụ thể, mặc dù viêm loét đại tràng thường chỉ giới hạn ở vị trí niêm mạc. 

Kết luận

Trong vài năm trở lại đây, IUS đã trở thành một phương pháp hữu ích và được xác định rõ ràng, có ích trong việc quản lý bệnh nhân IBD. Chất lượng thiết bị siêu âm được cải thiện, với chất lượng hình ảnh tốt hơn và đầu dò có độ phân giải cao với mức giá chấp nhận được, đã mở rộng việc sử dụng IUS trong số các bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa trong những năm gần đây. 

IUS trong IBD hiện có các chỉ định được chấp nhận rộng rãi và là một phần của các hướng dẫn quốc gia và châu Âu. Các chỉ định bao gồm chẩn đoán chính về CD và UC, cũng như phát hiện các biến chứng ngoài thành, phát hiện và đánh giá các chỗ hẹp hẹp và theo dõi quá trình bệnh. Các công cụ bổ sung, chẳng hạn như CEUS, siêu âm đàn hồi hoặc siêu âm quanh hậu môn có thể hữu ích trong nhiều tình huống lâm sàng khác nhau.

Tài liệu tham khảo 

1. Strobel D, Goertz RS, Bernatik T. Diagnostics in inflammatory bowel disease: ultrasound. World J Gastroenterol. 2011;17:3192–3197. [ 

2. Calabrese E, Petruzziello C, Onali S, et al. Severity of postoperative recurrence in Crohn’s disease: correlation between endoscopic and sonographic findings. Inflamm Bowel Dis. 2009;15:1635–1642 

3. Torsten Kucharzik, Klaus Kannengiesser, and Frauke Petersen. The use of ultrasound in inflammatory bowel disease. Ann Gastroenterol. 2017; 30(2): 135–144.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe