Đánh giá các sinh thiết đại tràng-trực tràng ban đầu trước khi điều trị ở bệnh nhân có bệnh lý viêm loét đại tràng

Đứng trước người bệnh có triệu chứng tiêu hóa dưới, nhất là tiêu lỏng, tiêu lỏng có máu, bác sĩ lâm sàng rất đắn đo giữa chẩn đoán viêm đại tràng thông thường và bệnh lí viêm ruột. Chẩn đoán xác định phải đặt ra vì điều trị các bệnh lý này khác nhau.

Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park

Tổng quan


Đứng trước người bệnh có triệu chứng tiêu hóa dưới, nhất là tiêu lỏng, tiêu lỏng có máu, bác sĩ lâm sàng rất đắn đo giữa chẩn đoán viêm đại tràng thông thường và bệnh lí viêm ruột. Chẩn đoán xác định phải đặt ra vì điều trị các bệnh lý này khác nhau. 

Giải phẫu bệnh đánh giá tổn thương sinh thiết đóng vai trò hết sức quan trọng trong chẩn đoán bệnh lí này. Bệnh nhân bị viêm loét đại tràng (UC) có nguy cơ phát triển loạn sản và ung thư; kết quả tối ưu trong các chương trình giám sát UC đòi hỏi phải quen thuộc với các tiêu chuẩn chẩn đoán và các thách thức liên quan đến loạn sản và ác tính liên quan đến viêm loét đại tràng. Sinh thiết đại tràng từ bệnh nhân UC luôn phải được đánh giá về loạn sản dựa trên các bất thường về tế bào học và cấu trúc.  

Đánh giá các sinh thiết đại tràng-trực tràng ban đầu trước khi điều trị


Đánh giá mẫu mô sinh thiết đại tràng-trực tràng lần đầu trước khi điều trị y tế đóng vai trò thiết yếu trong việc quản lý bệnh nhân bị tiêu chảy ra máu cấp tính. Trong bối cảnh lâm sàng này, các cân nhắc chẩn đoán phân biệt chính là viêm đại tràng nhiễm trùng cấp tính và bệnh viêm ruột vô căn (IBD) (bao gồm UC). Cả hai thực thể này đều luôn biểu hiện bệnh hoạt động dưới dạng tổn thương biểu mô bạch cầu trung tính. 

Tuy nhiên, một tiêu chí đáng tin cậy để phân biệt viêm loét đại tràng với viêm đại tràng nhiễm trùng cấp tính là sự hiện diện của các đặc điểm mô học của tình trạng mãn tính. Ngay cả trong các biểu hiện cấp tính của viêm loét đại tràng, các đặc điểm phát triển tốt của tình trạng mãn tính (bao gồm biến dạng cấu trúc, tăng lympho bào đáy hoặc loạn sản tế bào Paneth bên trái) vẫn phải có mặt.

Không phải là thường quy để chẩn đoán xác định bệnh viêm loét đại tràng so với bệnh Crohn trong sinh thiết ban đầu. Do bản chất bề ngoài của mẫu sinh thiết qua nội soi, một trong những tiêu chí để phân biệt bệnh UC so với bệnh Crohn (cụ thể là viêm bề ngoài so với viêm xuyên thành) không thể được đánh giá.  Có một số đặc điểm bệnh lý không điển hình có thể dẫn đến phân loại sai IBD, đặc biệt là trong các mẫu sinh thiết. 

Tuy nhiên, đánh giá sự phân bố bệnh ở đại tràng có thể hữu ích trong việc hỗ trợ phân biệt viêm loét đại tràng với bệnh Crohn; mẫu tốt nhất cho mục đích này là bộ sinh thiết 'có hệ thống' đầu tiên trước khi điều trị y tế. Các đặc điểm mô học chính hỗ trợ chẩn đoán viêm loét đại tràng trong sinh thiết trước khi điều trị bao gồm viêm đại tràng hoạt động mãn tính lan tỏa và đồng nhất với sự liên quan phổ biến của trực tràng và không có u hạt.

Các đặc điểm bất thường của viêm loét đại tràng trước khi điều trị y tế

Các đặc điểm bất thường có thể được quan sát thấy trong các sinh thiết trước khi điều trị ở những bệnh nhân bị viêm loét đại tràng đã được chứng minh lâm sàng. 

Sự hiện diện của các đặc điểm này có thể làm dấy lên mối lo ngại về bản chất thực sự của bệnh viêm đại tràng tiềm ẩn và có thể dẫn đến chẩn đoán sai bệnh Crohn. Việc nhận thức được các đặc điểm bất thường này và các bối cảnh lâm sàng liên quan là điều cần thiết để tránh chẩn đoán sai.

Trình bày trước khi điều trị viêm loét đại tràng ở trẻ em

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bảo tồn trực tràng nội soi hoặc mô học (tương đối hoặc tuyệt đối) có thể xảy ra tại thời điểm biểu hiện ban đầu ở một nhóm nhỏ bệnh nhân viêm loét đại tràng nhi khoa. 

Trong nghiên cứu lớn nhất của Glickman và cộng sự, việc bảo tồn trực tràng tương đối (được định nghĩa là tình trạng viêm ít nghiêm trọng hơn ở trực tràng, so với đại tràng bên phải) hoặc bảo tồn trực tràng tuyệt đối (có nghĩa là mô học bình thường ở trực tràng) xảy ra ở 30% trường hợp viêm loét đại tràng nhi khoa. Tương tự như vậy, tình trạng viêm từng mảng được ghi nhận ở 21% trường hợp UC nhi khoa.

Viêm manh tràng hoặc viêm tăng dần ở bệnh nhân viêm loét đại tràng bên trái

Một số bệnh nhân bị viêm loét đại tràng bên trái có thể bị viêm ở manh tràng và/hoặc đại tràng lên, nhưng hoàn toàn bảo tồn được đại tràng ngang xen kẽ qua nội soi và mô học. 

Mutinga và cộng sự (2004) đã phát hiện thấy tình trạng viêm từng mảng ở bên phải xuất hiện ở 9% bệnh nhân viêm loét đại tràng không được chọn lọc có bệnh chủ yếu ở bên trái. Do đó, ở những bệnh nhân bị viêm đại tràng trái, tình trạng viêm ở manh tràng hoặc đại tràng lên với bảo tồn được đại tràng ngang không nên được hiểu là tổn thương bỏ qua có lợi cho bệnh Crohn.

Viêm loét đại tràng cấp tính

Bệnh nhân bị viêm loét đại tràng cấp tính có thể biểu hiện một số đặc điểm giống bệnh Crohn, chẳng hạn như không có tổn thương trực tràng và loét sâu theo đường thẳng, có thể dẫn đến chẩn đoán sai bệnh Crohn khi đánh giá sinh thiết niêm mạc. Việc hiểu biết về biểu hiện lâm sàng có thể hữu ích trong việc tránh chẩn đoán sai các trường hợp như bệnh Crohn.

Bệnh nhân bị viêm loét đại tràng cấp tính có thể biểu hiện một số đặc điểm giống bệnh Crohn
Bệnh nhân bị viêm loét đại tràng cấp tính có thể biểu hiện một số đặc điểm giống bệnh Crohn

Viêm hồi tràng ngược dòng ở viêm loét đại tràng


Viêm hồi tràng tận (lên đến vài cm) được báo cáo xảy ra ở khoảng 17% bệnh nhân viêm loét đại tràng. Tuy nhiên, không có tiêu chuẩn chẩn đoán nào được chấp nhận rộng rãi cho viêm hồi tràng ngược. 

Nghiên cứu mô học chi tiết về phẫu thuật cắt bỏ đại tràng từ bệnh nhân viêm loét đại tràng cho thấy hầu hết các trường hợp viêm hồi tràng ngược cũng có hoạt động viêm nghiêm trọng ở đại tràng (65%) và/hoặc viêm toàn bộ đại tràng (94%), cho thấy rằng viêm hồi tràng nhẹ có thể là do tình trạng viêm gây ra tình trạng mất khả năng của giá trị hồi manh tràng với dòng chảy ngược của các chất chứa trong đại tràng vào hồi tràng xa (do đó là 'viêm hồi tràng ngược'), ứ trệ do tình trạng giảm nhu động đại tràng do viêm hoặc tình trạng viêm kéo dài liên tục từ đại tràng.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

1. Satsangi J; silverberg et al. The Montreal classification of inflammatory bowel disease: controversies, consensus, and implication. Gut 2006, vol. 55 (pg. 749-53)
2. Gupta RB,  Harpaz N,  Itzkowitz S, et al. Histologic inflammation is a risk factor for progression to colorectal neoplasia in ulcerative colitis: a cohort study, Gastroenterology, 2007, vol. 133 (pg. 1099-105). 
3. Tom C. DeRoche, Shu-Yuan Xiao, Xiuli Liu. Histological evaluation in ulcerative colitis. Gastroenterology Report, Volume 2, Issue 3, August 2014, Pages 178–192.
 

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe