Sỏi trong gan là một bệnh mãn tính, chủ yếu phổ biến ở Châu Á, thường được đặc trưng bởi các đợt viêm đường mật tái phát và các hội chứng lâm sàng bệnh lý có liên quan, trong khi nó tạo thành một yếu tố nguy cơ phát triển ung thư đường mật trong gan. Việc quản lý nó trong các trường hợp phức tạp có thể là một thách thức và phụ thuộc vào sự tham gia của nhiều chuyên khoa từ các bác sĩ chuyên khoa gan, bác sĩ nội soi, bác sĩ X quang can thiệp và bác sĩ phẫu thuật gan mật.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Biểu hiện lâm sàng
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh sỏi gan có liên quan đến mức độ ứ mật và sự hiện diện của nhiễm trùng đường mật. Bệnh nhân thường phàn nàn về cảm giác khó chịu ở bụng, buồn nôn và nôn, nhưng cũng có thể bị viêm đường mật và tam chứng Charcot cổ điển gồm đau bụng, sốt và vàng da. Các trường hợp phức tạp có thể biểu hiện với ngũ chứng Reynold (ví dụ, đau bụng, sốt, vàng da, lú lẫn và hạ huyết áp), gợi ý rối loạn chức năng cơ quan, là dấu hiệu của tiên lượng xấu. Mặt khác, một số bệnh nhân có thể không có triệu chứng hoặc không có triệu chứng và được chẩn đoán mắc bệnh sỏi gan như một phát hiện tình cờ trong quá trình điều tra các tình trạng khác nhau hoặc do các triệu chứng bụng không đặc hiệu. Những thay đổi trong quá trình khám sức khỏe sẽ phụ thuộc vào hoạt động cơ bản của viêm đường mật và tắc mật. Những phát hiện thường gặp là khó chịu ở vùng thượng vị khi sờ nắn và gan to
Biến chứng
Sỏi gan phức tạp: Một trong những biến chứng phổ biến nhất là sự phát triển của sỏi gan phức tạp, khi bệnh ảnh hưởng đến cả thùy và/hoặc sỏi trong gan có liên quan đến hẹp/biến dạng rốn gan. Nếu không được điều trị, hẹp đường mật sẽ dẫn đến ứ mật mãn tính ở thượng nguồn, làm tăng nguy cơ lắng đọng muối mật và hình thành sỏi. Do đó, việc điều trị sỏi gan phải bao gồm việc giải quyết mọi tình trạng hẹp ống mật và thúc đẩy dòng chảy mật bình thường.
Viêm đường mật dai dẳng: Sự lỏng lẻo của cơ vòng Oddi và các hẹp đường mật làm tăng nguy cơ nhiễm trùng trong cây đường mật. Sự hiện diện của vi khuẩn cũng thúc đẩy sự kết tủa muối mật và hình thành sỏi, dẫn đến chu kỳ tự duy trì của viêm đường mật, tăng sản biểu mô đường mật, các hẹp tiếp theo và hình thành sỏi tiếp theo. Sự mất cân bằng hệ vi khuẩn đường mật liên quan đến chất nền thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh tạo điều kiện cho viêm đường mật tái phát, do đó giải thích tại sao bệnh này còn được gọi là "viêm đường mật mủ tái phát".
Xơ gan mật: Có tới 14,1% bệnh nhân phát triển xơ gan mật thứ phát và các biến chứng của nó, bao gồm tăng áp lực tĩnh mạch cửa và suy gan. Xơ gan xảy ra do hậu quả của tổn thương viêm mãn tính ở các ống dẫn mật, trong đó nhiễm trùng đường mật tái phát có thể dẫn đến viêm quanh ống dẫn, xơ hóa và viêm tắc tĩnh mạch tĩnh mạch cửa. Phương pháp điều trị bao gồm kiểm soát các biến chứng (cổ trướng, chảy máu tăng áp lực tĩnh mạch cửa, bệnh não gan, v.v. ) và trong các trường hợp tiến triển hơn, ghép gan tại chỗ (OLT).
Ung thư đường mật: Sỏi gan là một yếu tố nguy cơ đối với ung thư đường mật trong gan, xảy ra ở 21,2% trường hợp. ung thư đường mật trong gan là một loại ung thư hung hãn có tiên lượng xấu, đặc biệt là vì phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn chỉ có thể thực hiện được ở chưa đến một phần ba số bệnh nhân. Những bệnh nhân bị sỏi gan phát triển ung thư đường mật trong gan có nồng độ c-erbB2, yếu tố tăng trưởng biểu bì, COX-2 và yếu tố hạt nhân-kB cao hơn, đây là những dấu ấn sinh học của tình trạng viêm mãn tính. Hơn nữa, các gen ức chế khối u, cụ thể là p16 và DPC4/Smand4, thường bị bất hoạt ở những bệnh nhân này, do đó củng cố vai trò của tình trạng viêm mãn tính trong quá trình gây ung thư, như đã thấy ở những bệnh nhân bị viêm đường mật xơ cứng nguyên phát.
Nhóm nghiên cứu sỏi gan Nhật Bản đã theo dõi 401 bệnh nhân bị sỏi gan trong 18 năm. Nhóm này có tỷ lệ mắc ung thư đường mật tích lũy là 2,0% sau 5 năm, 4,0% sau 10 năm và 6,2% sau 15 năm theo dõi. Trong số những bệnh nhân này, các yếu tố nguy cơ độc lập đối với ung thư đường mật trong gan là tuổi ≥ 63 (HR 3,334, 95%CI: 1,316-8,499), sỏi còn lại sau điều trị (HR 2,445, 95%CI: 1,047-5,711) và sự xuất hiện/hình thành hẹp đường mật trong quá trình theo dõi (HR 4,350, 95%CI: 1,821-10,391). Tỷ lệ mắc ung thư đường mật cao hơn ở những bệnh nhân có ba yếu tố nguy cơ so với những bệnh nhân có một hoặc hai yếu tố nguy cơ. Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu của Trung Quốc trên 981 bệnh nhân đã phẫu thuật cắt gan do sỏi gan đã xác định được 55 trường hợp có ung thư đường mật trong gan trong thời gian theo dõi trung bình là 65 tháng. Các tác giả báo cáo rằng sỏi còn sót lại (HR 2,101, 95%CI: 1,150–3,839), hình thành nối gan-hỗng tràng (HR 1,837, 95%CI: 1,077-3,133) và tính đồng nhất giữa việc mở rộng cắt gan và các đoạn bị sỏi (tức là tất cả các đoạn bị ảnh hưởng hay ít hơn đã được cắt bỏ) (HR 2,442, 95%CI: 1,205-4,948) cũng là các yếu tố độc lập đối với ung thư đường mật trong gan. Ngoài ra, một nghiên cứu ca chứng từ Trung Quốc đã báo cáo rằng hút thuốc (OR = 1,931, 95%CI: 1,000-3,731), tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư (OR = 5,175, 95%CI: 1,216-22,022) và các triệu chứng trong hơn 10 năm (OR = 2,348, 95%CI: 1,394-3,952) là các yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến phát triển ung thư đường mật ở những bệnh nhân bị sỏi gan.
Tài liệu tham khảo
1. Gallstone Disease: Diagnosis and Management of Cholelithiasis, Cholecystitis and Choledocholithiasis. London: National Institute for Health and Care Excellence (NICE); 2014 Oct-
2. Kim IS, Myung SJ, Lee SS, Lee SK, Kim MH. Classification and nomenclature of gallstones revisited. Yonsei Med J. 2003;44:561-570.
3. Motta RV, Saffioti F, Mavroeidis VK. Hepatolithiasis: Epidemiology, presentation, classification and management of a complex disease. World J Gastroenterol 2024; 30(13): 1836-1850.