Các xét nghiệm đang được thực hiện tại phòng xét nghiệm giải phẫu bệnh bệnh viện Vinmec Central Park

Bài viết được viết bởi ThS.BS Bùi Thị Hồng Khang - Bác sĩ Giải phẫu bệnh, Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Xét nghiệm Giải phẫu bệnh (Mô bệnh học) hay còn gọi là sinh thiết là các mẫu mô được lấy từ người sống nhằm phục vụ cho công tác chẩn đoán và điều trị. Xét nghiệm Tế bào học là một loại vật liệu khác có thể lấy ra từ người sống để khảo sát bệnh lý là các loại tế bào có trong dịch cơ thể (dịch màng phổi, dịch màng bụng, nước tiểu), hoặc các tế bào bong tróc tự nhiên từ các loại biểu mô phủ (biểu mô phủ âm đạo - cổ tử cung, biểu mô phế quản).

1. Xét nghiệm giải phẫu bệnh (Mô bệnh học)

Các mẫu mô có thể được lấy ra theo nhiều cách (Hình 1):

  • Phẫu thiết: một mẫu mô, một phần hoặc toàn bộ một cơ quan bị bệnh được lấy ra bằng phẫu thuật. Thí dụ: một phần hạch cổ, toàn bộ dạ dày, một thùy giáp.
  • Sinh thiết qua nội soi: nhờ ống nội soi, có thể dùng kìm kẹp cắt một mẫu mô nhỏ
  • nằm sâu trong đường tiêu hoá, đường hô hấp hoặc tiết niệu.
  • Sinh thiết bằng lõi kim: nhờ các loại kim đặc biệt, có thể lấy được một mẫu nhỏ mô vú, gan, thận, màng phổi hoặc tủy xương...
  • Sinh thiết tức thì (cắt lạnh): giúp xác định nhanh khối u là lành tính hay ác tính ngay trong thời gian tiến hành phẫu thuật, để từ đó bác sĩ phẫu thuật sẽ đưa ra những hướng xử trí phù hợp dành cho người bệnh.
  • Sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ (FNA hay FNAB: fine needle aspiration biopsy)

Hình 1: Sinh thiết polýp đại tràng qua nội soi (A); sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ (B)
Hình 1: Sinh thiết polýp đại tràng qua nội soi (A); sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ (B)

Ta cũng có thể hút được các tế bào của bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể nhờ vào một kim nhỏ (cỡ 23-24). Xét nghiệm này có độ nhạy và đặc hiệu cao trong chẩn đoán carcinom tuyến giáp dạng nhú.

  • Sinh thiết: bằng phẫu thuật, hay nội soi
  • Sinh thiết tức thì (sinh thiết lạnh)
  • Sinh thiết lõi kim (core biopsy)
  • Sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ (FNA)

2. Xét nghiệm tế bào học

Đây là xét nghiệm PAP, Thinprep, hay dịch màng bụng, màng tim, màng phổi, dịch rửa phế quản...

  • Phết tế bào âm đạo cổ tử cung (PAP, Thin Prep)
  • Dịch tiết núm vú
  • Dịch cơ thể như màng bụng, màng phổi...

3. Khối tế bào (Cell block)

Khối tế bào (Cell Block): Dịch màng bụng, màng phổi khi nghi ngờ có tế bào ác tính di căn ngoài việc phết trực tiếp để quan sát tế bào còn có thể được quay ly tâm lấy cặn lắng và vùi nến. Kỹ thuật này cho phép cặn lắng được xử lý như một mẫu mô và thực hiện được các kỹ thuật khác như mẫu mô GPB.

Các kỹ thuật hỗ trợ chẩn đoán trong xét nghiệm GFB:

3.1 Nhuộm đặc biệt: (hóa mô)

  • Giemsa tìm vi khuẩn Helicobacter Pylorii
  • Nhuộm PAS
  • Nhuộm Trichrome
  • Nhuộm sợi võng reticulin Gomori (nhuộm bạc)

3.2 Nhuộm Hóa mô miễn dịch

  • Dùng trong chẩn đoán các bệnh lý thận và thải ghép thận.
  • Xác định nguồn gốc tế bào ác tính.
  • Hỗ trợ chọn lựa phương pháp điều trị và đánh giá tiên lượng cho bệnh nhân ung thư:

+ Điều trị nội tiết hay nhắm trúng đích trong ung thư vú: ER, PR, Her2/ Neu

+ Điều trị miễn dịch : PDL1

+ Tiên lượng và việc cá thể hóa trong điều trị: MMR (MLH1, MSH2, MSH6, PMS2)

  1. Phương pháp lai tại chỗ FISH xác định đột biến gen Her2/Neu
  2. Phương pháp nhuộm HMMD Dual-ISH Her2/Neu
  3. Giải trình tự gen phát hiện đột biến gen: EGFR, KRAS, BRAF, ALK1, ROS1...

4.Xét nghiệm giải phẫu bệnh được thực hiện như thế nào?

Mẫu mô lấy ra khỏi cơ thể phải được cố định và xử lý để quan sát được hình ảnh bệnh lý trên kính hiển vi, gồm các bước như sau:

  • Cố định: Khi mẫu mô hay cơ quan được phẫu thuật được lấy ra khỏi cơ thể sẽ được cố định ngay lập tức trong formaldehyde 10% để giữ nguyên tình trạng tế bào và mô như lúc còn sống trong cơ thể nhằm bảo đảm tổn thương bệnh lý không bị thay đổi.
  • Quan sát đại thể và chọn lựa vị trí bệnh lý cắt lọc và xử lý mô: Mẫu mô hay cơ quan được phẫu thuật này đã cố định sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm GPB sẽ được BS GPB quan sát bằng mắt trần, ghi chép vào phiếu xét nghiệm của mẫu thử, thậm chí ghi hình lại tất cả những đặc điểm hình thái (như kích thước, màu sắc, mật độ, giới hạn, vỏ bao...) của mô bệnh lý. Sau đó tiến hành chọn lọc vị trí có tổn thương, cắt lấy mẫu đặc trưng đem đi xử lý mô qua nhiều hóa chất để có thể cuối cùng cắt mỏng 1-3μm mới có thể quan sát được tế bào trên kính hiển vi.
  • Quan sát vi thể và siêu vi thể: Mẫu thử sau khi được cắt mỏng, nhuộm màu sẽ được nghiên cứu các tổn thương của tế bào và mô dưới kính hiển vi quang học hoặc kính hiển vi điện tử. Để quan sát được dưới kính hiển vi quang học, mẫu mô phải được cố định, xử lý, cắt mỏng và nhuộm màu, thời gian chuẩn bị mất khoảng 3-4 ngày. Mẫu có xương phải mất thêm 2-3 ngày khử canxi cho xương mềm ra mới cắt mỏng được.
  • Quan sát siêu vi thể đòi hỏi mẫu mô phải được cắt mỏng đến 0,1 μm, thời gian chuẩn bị mất hàng tháng do đó ít có tính ứng dụng trong chẩn đoán giải phẫu bệnh thường ngày, chủ yếu để phục vụ cho nghiên cứu.

5. Vì sao cần các kỹ thuật khác để hỗ trợ chẩn đoán trong các xét nghiệm GPB?

5.1 Nhuộm đặc biệt

Để quan sát được tổn thương có trong tế bào và mô cần phải nhuộm màu để dễ quan sát. Phương pháp nhuộm thường quy trong các labor giải phẫu bệnh là phương pháp nhuộm Hematoxylin-Eosin: tế bào sẽ có nhân bắt màu tím còn bào tương thì bắt màu hồng (Hình 2A).

Trong một số trường hợp, có thể dùng thêm các phương pháp nhuộm hóa mô (còn gọi là nhuộm đặc biệt) để xác định một số cấu trúc của tế bào và mô dựa vào ái tính đặc biệt của chúng đối với một số loại hoá chất nào đó. Thí dụ nhuộm Giemsa tìm vi khuẩn Helicobacter Pylori, nhuộm PAS để phát hiện glycogen và chất nhầy có trong tế bào, nhuộm Trichrome để thấy rõ sợi collagen.dùng để chẩn đoán xơ gan hay các bệnh lý ở thận (Hình 2 B,C).


Hình 2: Niêm mạc đại tràng nhuộm Hematoxylin-Eosin (A); nhuộm Trichrome, thấy rõ màng đáy bắt màu xanh dương; nhuộm PAS (periodic acid-Schiff), giọt chất nhầy của tế bào đài bắt màu hồng.
Hình 2: Niêm mạc đại tràng nhuộm Hematoxylin-Eosin (A); nhuộm Trichrome, thấy rõ màng đáy bắt màu xanh dương; nhuộm PAS (periodic acid-Schiff), giọt chất nhầy của tế bào đài bắt màu hồng.

5.2 Hóa mô miễn dịch

Gần đây, kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch đã được áp dụng rộng rãi trong các labor giải phẫu bệnh tại Tp.HCM để hỗ trợ cho chẩn đoán. Đây là một kỹ thuật nhuộm đặc biệt, sử dụng phản ứng kết hợp kháng nguyên - kháng thể nhằm phát hiện những thành phần cấu tạo (các kháng nguyên) có trong tế bào và mô. Vị trí kết hợp kháng nguyên - kháng thể sẽ được hiển thị nhờ các hoá chất. (Hình 3). Tùy theo hoá chất hiển thị, phân biệt hai phương pháp nhuộm hóa mô miễn dịch chính:

* Miễn dịch huỳnh quang:

Kháng thể được gắn với chất phát huỳnh quang. Nếu có phản ứng kết hợp kháng nguyên - kháng thể (nghĩa là có sự hiện diện của kháng nguyên cần tìm trong mẫu mô), phức hợp kháng nguyên-kháng thể sẽ phát quang khi được kích thích bởi tia cực tím, quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang. Chất phát huỳnh quang có thể được gắn trực tiếp vào kháng thể đặc hiệu, gọi là phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp; hoặc gắn vào kháng thể thứ hai đặc hiệu với kháng thể thứ nhất, gọi là miễn dịch huỳnh quang gián tiếp. Miễn dịch huỳnh quang được sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán các bệnh lý cầu thận và một số bệnh lý của da (Hình 4A).


Hình 4: Miễn dịch huỳnh quang và miễn dịch men, trực tiếp (A) và gián tiếp (B)
Hình 4: Miễn dịch huỳnh quang và miễn dịch men, trực tiếp (A) và gián tiếp (B)

* Miễn dịch men:

Kháng thể được gắn với men (enzyme). Khi cho thêm chất hiện màu vào mẫu mô, men làm kết tủa chất màu (thường là màu nâu) tại vị trí phức hợp kháng nguyên-kháng thể, nhờ đó thấy được dưới kính hiển vi quang học.

Cũng giống như với chất phát huỳnh quang, nếu men được gắn trực tiếp vào kháng thể thứ nhất đặc hiệu với kháng nguyên, gọi là phương pháp miễn dịch men trực tiếp. Khi men được gắn vào kháng thể thứ hai đặc hiệu với kháng thể thứ nhất, gọi là miễn dịch men gián tiếp.

Miễn dịch men được sử dụng nhiều trong chẩn đoán các bệnh lý u bướu:

  • Giúp xác định nguồn gốc của các khối u có độ biệt hoá quá kém hoặc không biệt hoá để phân biệt giữa carcinom, sarcom hay lymphoma (Hình 19B).
  • Giúp đánh giá tiên lượng và đáp ứng điều trị:

Đánh giá tình trạng thụ thể nội tiết estrogen, progesteron, thụ thể Her-2/neu đối với ung thư vú.


Hình 4: Hoá mô miễn dịch huỳnh quang, dùng kháng thể huỳnh quang chống IgA cho thấy có sự lắng đọng của IgA ở vùng giãn mao mạch trong bệnh thận IgA (A). Một u kém biệt hoá cấu tạo bởi tế bào hình thoi trông giống như một sarcoma (B1), nhuộm hóa mô miễn dịch men với kháng thể chống cytokeratin cho thấy tế bào u bắt màu nâu (B2), chứng tỏ đây là một carcinôm chứ không phải là sarcoma.
Hình 4: Hoá mô miễn dịch huỳnh quang, dùng kháng thể huỳnh quang chống IgA cho thấy có sự lắng đọng của IgA ở vùng giãn mao mạch trong bệnh thận IgA (A). Một u kém biệt hoá cấu tạo bởi tế bào hình thoi trông giống như một sarcoma (B1), nhuộm hóa mô miễn dịch men với kháng thể chống cytokeratin cho thấy tế bào u bắt màu nâu (B2), chứng tỏ đây là một carcinôm chứ không phải là sarcoma.

Cung cấp các thông tin có giá trị cho tiên lượng và việc cá thể hóa trong điều trị:

+ Nhuộm HMMD phát hiện đột biến PDL1 trên tế bào ung thư được sử dụng để dự báo khả năng đáp ứng của bệnh nhân với liệu pháp điều trị miễn dịch.

+ Nhuộm HMMD bộ tứ protein của bộ gen sửa chữa ghép cặp sai DNA MMR (MLH1, MSH2, MSH6, PMS2) không chỉ để sàng lọc hội chứng Lynch mà còn giúp phân biệt giữa ung thư đại trực tràng thiếu hụt hệ thống sửa chữa ghép cặp sai (dMMR: deficient mismatch repair) với ung thư đại trực tràng ổn định vị vệ tinh (MSS). Hai loại này có tiên lượng và đáp ứng với điều trị khác nhau.

FISH VÀ DUAL-ISH HER2/NEU:

Ngoài ra, các kỹ thuật tiên tiến ứng dụng sinh học phân tử như kỹ thuật lai ghép tại chỗ phát huỳnh quang (fluorescent in situ hybridization, FISH), v.v. cũng đang từng bước được đưa vào sử dụng trong labor giải phẫu bệnh nhằm phục vụ cho công tác chẩn đoán. Ví dụ trong trường nhuộm HMMD Her2/ Neu không rõ ràng sẽ hỗ trợ xác định lại bằng FISH hay Dual-ISH. (Hình 5).


Hình 5: Kỹ thuật FISH cho thấy có sự khuyếch đại gen HER-2/neu lên gấp 3 lần (biểu hiện bằng các đốm đỏ trong nhân) ở các tế bào carcinôm tuyến vú (B) so với tế bào biểu mô ống tuyến vú bình thường (A).
Hình 5: Kỹ thuật FISH cho thấy có sự khuyếch đại gen HER-2/neu lên gấp 3 lần (biểu hiện bằng các đốm đỏ trong nhân) ở các tế bào carcinôm tuyến vú (B) so với tế bào biểu mô ống tuyến vú bình thường (A).

Sinh học phân tử: Phản ứng chuỗi polymerase (polymerase chain reaction, PCR)

Đối với các dấu ấn sinh học phân tử, có nhiều gen liên quan đến các con đường dẫn truyền tín hiệu tế bào bị đột biến trong ung thư phổi như KRAS (tỷ lệ đột biến 15-25%), EGFR (10-35%), ALK (3-7%), HER2 (2-4%), MET (1-2%), ROS-1 (1-2%),...

Các xét nghiệm sinh học phân tử có vai trò đặc biệt quan trọng trong lựa chọn phác đồ điều trị, tiên lượng, theo dõi quá trình điều trị bằng các thuốc điều trị đích. Trong số đó xét nghiệm đột biến gen EGFR và chuyển đoạn ALK có ý nghĩa nhất trong ứng dụng thực hành lâm sàng.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Khách hàng khi chọn thực hiện các xét nghiệm tại đây có thể hoàn toàn yên tâm về độ chính xác của kết quả xét nghiệm.

Khách hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline tại đây để được hỗ trợ.

Tài liệu tham khảo Giáo trình GPB Bộ môn GPB Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TPHCM.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe