Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Văn Khánh - Bác sĩ Giải phẫu bệnh - Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City
Các tế bào ung thư tuyến vú được lấy ra trong quá trình sinh thiết hoặc phẫu thuật sẽ được làm xét nghiệm để xem chúng có chứa các thụ thể estrogen hoặc thụ thể progesteron hay không. Khi estrogen và progesteron gắn vào các thụ thể này, chúng sẽ làm cho ung thư phát triển. Biết được tình trạng các thụ thể nội tiết là thông tin quan trọng cho bác sĩ lựa chọn phác đồ điều trị cho bệnh nhân.
1. Các thụ thể estrogen và progesterone là gì?
Các thụ thể này là các protein ở bên trong hoặc ở bên trên bề mặt của các tế bào mà có thể gắn với một số chất nhất định có trong máu. Tế bào tuyến vú bình thường và một số tế bào ung thư tuyến vú có các thụ thể gắn với hormon estrogen, progesterone và chúng phụ thuộc vào các thụ thể này để phát triển.
Các tế bào ung thư tuyến vú có thể có một, hai hoặc không có thụ thể nào trong hai thụ thể này.
- ER-dương tính: Các ung thư tuyến vú có thụ thể estrogen được gọi là ung thư ER-dương tính (hoặc ER+).
- PR-dương tính: Các ung thư có thụ thể progesterone được gọi là ung thư PR-dương tính (hoặc PR+).
- Thụ thể hormon-dương tính: Nếu tế bào ung thư có một hoặc hai thụ thể trên, có thể sử dụng thuật ngữ thụ thể - hormon dương tính (còn được gọi là hormon - dương tính hoặc HR+).
- Thụ thể hormon-âm tính: Nếu tế bào ung thư không có thụ thể estrogen và không có thụ thể progesteron, nó được gọi là thụ thể - nội tiết âm tính (còn được gọi là nội tiết – âm tính hoặc HR-).
Một số thuốc giữ không cho hormon estrogen và progesteron gắn vào các thụ thể này, từ đó có thể giúp giữ cho ung thư không phát triển và di căn.
2. Tại sao biết về tình trạng của thụ thể nội tiết lại quan trọng?
Biết về tình trạng các thụ thể nội tiết trong ung thư của bạn sẽ giúp cho các bác sỹ quyết định liệu pháp điều trị cho bạn. Nếu ung thư của bạn có một hoặc cả hai thụ thể nội tiết này, thì các thuốc liệu pháp nội tiết có thể được sử dụng để làm giảm mức độ estrogen hoặc ngăn chặn estrogen hoạt động trên các tế bào ung thư tuyến vú. Phương pháp điều trị này rất hữu ích đối với ung thư tuyến vú có thụ thể nội tiết dương tính, nhưng nó không hữu ích đối với các khối u mà có thụ thể nội tiết âm tính.
Tất cả các trường hợp ung thư tuyến vú xâm nhập nên được xét nghiệm cho cả hai loại thụ thể nội tiết này trên mẫu bệnh phẩm sinh thiết hoặc trên mẫu bệnh phẩm sau khi phẫu thuật. Khoảng 2/3 các trường hợp ung thư vú có hiện diện của ít nhất một trong hai thụ thể này. Phụ nữ lớn tuổi có tỷ lệ dương tính với các thụ thể nội tiết cao hơn so với những phụ nữ trẻ. Các trường hợp ung thư biểu mô ống tại chỗ cũng nên làm xét nghiệm để kiểm tra các thụ thể nội tiết này.
3. Kết quả xét nghiệm thụ thể nội tiết có ý nghĩa như thế nào?
Một xét nghiệm được gọi là hóa mô miễn dịch (HMMD) thường được sử dụng nhất để đánh giá xem tế bào ung thư có các thụ thể estrogen và progesteron hay không. Kết quả xét nghiệm giúp bác sỹ quyết định phương pháp điều trị tốt nhất cho bạn.
Kết quả xét nghiệm cho biết tình trạng thụ thể nội tiết trong tế bào ung thư của bạn. Một khối u được gọi là thụ thể nội tiết dương tính khi có ít nhất 1% tế bào u có thụ thể estrogen và/hoặc progesteron. Nếu không nó được gọi là thụ thể nội tiết âm tính.
Ung thư vú có thụ thể nội tiết - dương tính là ung thư có thụ thể estrogen và/hoặc thụ thể progesteron. Những ung thư vú này có thể được điều trị bằng liệu pháp nội tiết với các thuốc có tác dụng làm giảm nồng độ estrogen trong máu hoặc ức các thụ thể estrogen. Ung thư với thụ thể nội tiết dương tính có xu hướng phát triển chậm hơn ung thư với thụ thể nội tiết âm tính. Những phụ nữ bị ung thư với thụ thể nội tiết dương tính thì có tiên lương tốt hơn, nhưng đôi khi chúng có thể tái phát nhiều năm sau điều trị.
Ung thư vú có thụ thể nội tiết - âm tính là những ung thư không có cả thụ thể estrogen và thụ thể progesteron. Liệu pháp điều trị bằng nội tiết không có tác dụng ở những bệnh nhân này. Ung thư với thụ thể nội tiết âm tính có xu hướng phát triển nhanh hơn ung thư với thụ thể nội tiết dương tính. Nếu chúng tái phát sau điều trị, chúng thường tái phát trong một vài năm đầu. Ung thư có thụ thể âm tính thường phổi biến hơn ở những phụ nữ chưa tới thời kỳ mãn kinh.
Ung thư vú bộ ba - âm tính là những ung thư không có thụ thể estrogen, progesteron và cũng không có quá nhiều protein được gọi là HER2. Những ung thư này có xu hướng hay gặp hơn ở những phụ nữ nhỏ hơn 40 tuổi, những người phụ Mỹ gốc Phi, hoặc những người có mang đột biến gen BRCA1. Ung thư vú bộ ba - âm tính phát triển và di căn nhanh hơn các típ ung thư vú khác. Bởi vì các tế bào ung thư không có các thụ thể nội tiết, nên liệu pháp điều trị bằng nội tiết không có hữu ích ở những bệnh nhân này. Và bởi vì chúng không có quá nhiều HER2, nên các thuốc điều trị đích cũng không có hữu ích. Liệu pháp hóa trị có thể vẫn có tác dụng.
Ung thư vú bộ ba - dương tính là những ung thư có ER-dương tính, PR-dương tính và HER2-dương tính. Những ung thư này có thể được điều trị bằng liệu pháp nội tiết và cả liệu pháp điều trị đích.
Để sớm phát hiện ra căn bệnh ung thư vú, bạn nên tầm soát ung thư vú thường xuyên, nhất là nhóm đối tượng trên 40 tuổi, có nguy cơ cao mắc căn bệnh này.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ