Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
1. Trào ngược dạ dày thực quản (viêm thực quản trào ngược) là bệnh gì?
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) là bệnh xảy ra khi axit dạ dày trào ngược lên thực quản, điều này có thể gây ra triệu chứng ợ nóng hoặc các triệu chứng khác. Những cơn trào ngược thường xảy ra sau bữa ăn, trong thời gian ngắn và không kèm theo các triệu chứng và hiếm khi xảy ra khi ngủ. Tuy nhiên, những cơn trào ngược bình thường này sẽ trở thành bệnh trào ngược dạ dày thực quản khi các triệu chứng xảy ra thường xuyên (khoảng từ 2 đến 3 lần mỗi tuần) hoặc làm thực quản bị tổn thương.
2. Triệu chứng trào ngược dạ dày
Sau đây là 4 triệu chứng (biểu hiện) chính thường gặp ở người bệnh trào ngược dạ dày - thực quản:
- Ợ nóng: Là triệu chứng thường gặp nhất. Đó là cảm giác gây ra do các thành phần của dịch dạ dày trào ngược lên thực quản. Bệnh nhân thấy nóng rát từ vùng thượng vị, lan ngược lên phía sau xương ức có khi lên tận cổ họng. Ợ nóng thường tăng lên sau khi ăn, khi nằm xuống hoặc ưỡn người về phía trước.
- Ợ chua: Là hiện tượng do các thành phần acid của dịch dày hoặc thực quản trào ngược lại ra vùng hầu họng.
- Nuốt khó: Xuất hiện ở 1/3 số bệnh nhân trào ngược, đó là cảm giác thức ăn hay nước uống dừng lại phía sau xương ức ngay sau khi nuốt. Nuốt khó, hay nghẹn là triệu chứng cần cảnh giác với ung thư thực quản.
- Ho khan, khàn giọng: Dịch axit trào lên lâu ngày sẽ gây viêm, tổn thương niêm mạc hầu họng, gây ho, khàn giọng. Nhiều trường hợp do không biết mình bị trào ngược dạ dày gây ho, người bệnh không đi khám và tự đi mua thuốc uống (thuốc ho, đau họng...). Hệ quả là uống cả tháng trời tình trạng ho vẫn không giảm, thậm chí còn gây bệnh dạ dạ vì sử dụng quá nhiều thuốc.
- Ngoài ra, còn có các triệu chứng không điển hình khác, gồm: Nôn, ợ hơi, tăng tiết nước bọt, khò khè, hen phế quản, mòn răng do axit, có những người còn bị viêm xoang, viêm tai giữa do hệ quả của trào ngược dạ dày thực quản lâu ngày...
3. Chẩn đoán viêm thực quản trào ngược kháng trị
Đánh giá tiêu chuẩn về các triệu chứng viêm thực quản trào ngược kháng trị (GERD) nên bao gồm đánh giá triệu chứng kỹ lưỡng, đánh giá cấu trúc của đường tiêu hóa trên và đánh giá chức năng để bao gồm đánh giá bản chất của chất trào ngược và có thể là chức năng vận động thực quản.
3.1 Các công cụ chẩn đoán viêm thực quản trào ngược kháng trị
- Đáng giá đường tiêu hoá trên với chụp X quang thực quản dạ dày cản quang
- Nội soi đường tiêu hoá trên
- Theo dõi pH thực quản
- Giám sát trở kháng thực quản
- Đo nhu động thực quản
3.2 Đánh giá triệu chứng
Bước đầu tiên trong việc đánh giá GERD kháng trị là làm rõ các triệu chứng dai dẳng và các yếu tố làm trầm trọng thêm. Bệnh nhân GERD kháng trị thường cho biết nóng rát không điển hình ở ngực trên hoặc cổ họng không liên quan đến bữa ăn và liên quan đến ợ hơi, khó tiêu và đầy bụng. Trào ngược, hoặc trào ngược các chất trong dạ dày vào ngực hoặc miệng, cũng thường gặp trong GERD kháng trị nhưng có thể là dấu hiệu của chứng rối loạn dạ dày. Các triệu chứng báo động, chẳng hạn như chán ăn, khó nuốt, đau mắt, sụt cân, thiếu máu và chảy máu đường tiêu hoá, cũng phải được đánh giá, vì chúng có thể chỉ ra bệnh nặng hơn, chẳng hạn như hình thành nghiêm trọng hoặc bệnh ác tính đường tiêu hoá trên.
3.3 Chụp X quang cản quang đường tiêu hoá trên với thuốc cản quang Baryt
X quang Baryt có thể được sử dụng để đánh giá bệnh nhân có các triệu chứng thực quản, nhưng độ nhạy của xét nghiệm này cực kỳ thấp. Nuốt bari không có vai trò gì trong chẩn đoán thường quy của GERD, nhưng nó có thể hữu ích trong việc điều trị chứng khó nuốt.
3.4 Nội soi đường tiêu hoá trên
Hiệp hội Nội soi Tiêu hóa Hoa Kỳ khuyến nghị nội soi đường tiêu hóa trên cho những bệnh nhân có các triệu chứng GERD dai dẳng mặc dù đã tối ưu hóa liệu pháp PPI. Khi nội soi, nên sinh thiết để loại trừ bệnh lý viêm thực quản tăng Esinoph il EoE và ung thư thực quản. Nội soi cũng có thể xác định các nguyên nhân thay thế gây ra các triệu chứng khó chữa, chẳng hạn như viêm thực quản nhiễm trùng, Barett’s thực quản, ung thư thực quản, hoặc loét dạ dày hoặc tá tràng.
3.5 Theo dõi pH thực quản
Theo dõi pH thực quản là một công cụ chẩn đoán phổ biến để đánh giá bệnh nhân mắc GERD khó điều trị. Mặc dù khả năng chẩn đoán của việc theo dõi độ pH thực quản ở bệnh nhân điều trị PPI thấp, nó có thể xác định những bệnh nhân GERD kháng trị có thể được hưởng lợi từ liệu pháp PPI hơn nữa và những người có triệu chứng không liên quan đến trào ngược axit. Kiểm tra độ pH thực quản ở những bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình đang điều trị có thể xác định xem trào ngược có phải là nguyên nhân gây ra các triệu chứng ban đầu của họ hay không.
Sử dụng viên nang đo pH không dây thường được sử dụng vì nó thoải mái hơn và có thể giữ pH trong vài ngày. Tuy nhiên, giá trị của việc theo dõi pH mở rộng vẫn chưa rõ ràng, vì một nghiên cứu gần đây cho thấy 67% bệnh nhân GERD kháng trị được kiểm tra pH bình thường trong suốt 2 ngày theo dõi. Hơn nữa, do không có khả năng đo sự trào ngược có tính axit hoặc kiềm yếu, cả theo dõi pH không dây và truyền thống đã được thay thế bằng trở kháng thực quản và theo dõi pH.
3.6 Trở kháng đa kênh trong lòng thực quản – giám sát pH
Trong theo dõi trở kháng trong lòng thực quản - đo pH đa kênh thực quản, một đầu dò trong lòng ống được đặt vào thực quản với các điện cực ở nhiều mức. Do không khí có trở kháng cao và chất lỏng có trở kháng thấp nên có thể đo được cả thành phần và mức độ của sự kiện trào ngược. Một bộ theo dõi pH trên catheter trở kháng cũng cho phép xác định độ axit của chất hồi lưu. Do đó, không giống như theo dõi pH thực quản đơn thuần, theo dõi trở kháng trong miệng có thể xác định trào ngược là axit, axit yếu hoặc kiềm và thành phần của nó là chất lỏng, khí hoặc cả hai.
3.7 Bilitec thực quản
Bilitec sử dụng một cảm biến gắn trên ống thông để phát hiện sự hiện diện của bilirubin trong thực quản đoạn xa như một dấu hiệu cho sự trào ngược mật. Việc bổ sung Bilitec để theo dõi độ pH đã được chứng minh là làm rõ thành phần của trào ngược và tăng tỷ lệ kết quả bất thường lên 30–40% ở bệnh nhân điều trị chịu nhiệt. Nó không được bán rộng rãi và cần có những hạn chế cụ thể về chế độ ăn uống.
3.8 Áp kế thực quản – Đo vận động thực quản
Phép đo vận động thực quản trong GERD kháng trị có lợi ích hạn chế vì hầu hết bệnh nhân thất bại trong điều trị đều mắc chứng NERD hoặc rối loạn chức năng thực quản ruột. Tuy nhiên, áp kế thực quản có thể được sử dụng để định vị các cảm biến trước khi theo dõi độ pH và để loại trừ các rối loạn vận động thực quản hoặc chứng achalasia. Đo áp suất cũng rất quan trọng đối với những bệnh nhân đang cân nhắc phẫu thuật chống trào ngược, vì có tới 40% bệnh nhân bị rối loạn nhu động trước phẫu thuật gặp phải chứng khó nuốt sau phẫu thuật.
4. Kết luận
GERD kháng trị với thuốc kháng tiết axit PPI là một vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến một tỷ lệ lớn bệnh nhân bị GERD. GERD kháng trị có thể không có một nguyên nhân cơ bản nào và thực sự có thể đại diện cho một số trạng thái bệnh. Các nguyên nhân tiềm ẩn bao gồm không tuân thủ thuốc, quá mẫn nội tạng, trào ngược không acid, rối loạn nhu động và thay đổi chuyển hóa PPI. Các trạng thái bệnh khác như achalasia, viêm thực quản tăng eosinophilEoE và ung thư thực quản cũng phải được xem xét. Cơ sở chính để đánh giá một bệnh nhân bị GERD kháng trị là nội soi đường tiêu hóa trên và theo dõi trở kháng thực quản để làm rõ bản chất của bất kỳ sự trào ngược nào còn sót lại hoặc tránh bỏ sót chẩn đoán. Hầu hết các liệu pháp liên quan đến việc tối ưu hóa điều trị GERD và nhắm vào cơ chế kháng thuốc cơ bản nếu được xác định. Các liệu pháp bao gồm từ dược lý đến thủ thuật có thể được sử dụng để thay thế và bổ sung.
Hầu hết những người bị GERD sẽ không phát hiện các biến chứng nguy hiểm, đặc biệt nếu được điều trị. Tuy nhiên, các biến chứng tiềm ẩn nghiêm trọng đôi khi có thể xảy ra ở những người bị GERD nặng. Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ uy tín được nhiều bệnh nhân tin cậy trong thực hiện kỹ thuật chẩn đoán và điều trị các bệnh lý viêm thực quản trào ngược, viêm thực quản trào ngược kháng trị, viêm dạ dày ...Cùng với đó, tại Bệnh viện Vinmec, việc thực hiện chẩn đoán thông qua nội soi đại tràng với máy nội soi Olympus CV 190, với chức năng (Narrow Banding Imaging - nội soi với dải tần ánh sáng hẹp) cho kết quả hình ảnh phân tích bệnh lý niêm mạc rõ nét hơn so với nội soi thông thường, phát hiện các tổn thương viêm loét, trào ngược ở thực quản, dạ dày, các tổn thương biến đổi Barrett’s, các tổn thương ung thư ở giai đoạn sớm.... Bệnh viện Vinmec với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, luôn tận tâm tận lực trong khám chữa bệnh, khách hàng có thể yên tâm với dịch vụ nội soi đại trực tràng tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
- Mermelstein J, Mermelstein AC, Chait MM. Proton pump inhibitors for the treatment of patients with erosive esophagitis and gastroesophageal reflux disease: current evidence and safety of dexlansoprazole. Clin Exp Gastroenterol. 2016;9:163–172. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- Scarpellini E, Ang D, Pauwels A, De Santis A, Vanuytsel T, Tack J. Management of refractory typical GERD symptoms. Nat Rev Gastroenterol Hepatol. 2016;13(5):281–294. [PubMed] [Google Scholar]
- Horn J. The proton-pump inhibitors: similarities and differences. Clin Ther. 2000;22(3):266–280. discussion 265. [PubMed] [Google Scholar]
- Chiba N, De Gara CJ, Wilkinson JM, Hunt RH. Speed of healing and symptom relief in grade II to IV gastroesophageal reflux disease: a meta-analysis. Gastroenterology. 1997;112(6):1798–1810. [PubMed] [Google Scholar]
- Joseph Mermelstein , Alanna Chait Mermelstein , và Maxwell M Chait. Bệnh trào ngược dạ dày-thực quản kháng thuốc ức chế bơm proton: thách thức và giải pháp. Clin Exp Gastroenterol. 2018; 11: 119–134.