Bệnh hoại tử xương là tình trạng xương bị nhồi máu khu trú, có thể tự phát hoặc do nguyên nhân cụ thể. Xương bị hoại tử sẽ gây đau, giới hạn vận động, gây phá hủy khớp và biến dạng khớp. Các tổn thương xương bị hoại tử nhỏ có thể tự lành, nhưng các tổn thương lớn, nhất là khớp háng sẽ tiến triển nặng hơn nếu không điều trị.
1. Hoại tử xương là gì?
Nhiều người bệnh nhân bị đau không giải thích được ở vùng háng, đầu gối, vai (đôi khi là cổ tay hoặc cổ chân) và sau gãy xương đau vẫn tiếp diễn hoặc nặng hơn thì nên nghi ngờ xương bị hoại tử. Vậy hoại tử xương là gì?
Bệnh hoại tử xương là tình trạng xương bị nhồi máu khu trú, có thể tự phát hoặc do nguyên nhân cụ thể. Tình trạng hoại tử này có thể là hoại tử xương do thiếu máu, hoại tử vô mạch hoặc hoại tử vô trùng. Hoại tử xương cũng có thể là biến chứng của tình trạng gãy cổ xương đùi, nhưng sự hiện diện của những yếu tố làm giảm tưới máu xương, chẳng hạn như lạm dụng rượu, sử dụng corticoid kéo dài sẽ làm tăng nguy cơ xương bị hoại tử không do chấn thương.
2. Nguyên nhân gây hoại tử xương
Nguyên nhân xương bị hoại tử thường gặp nhất là do chấn thương. Bệnh hoại tử xương không do chấn thường xảy ra ở giới nam nhiều hơn nữ, thường ở cả hai bên (> 60% trường hợp) và chủ yếu trong độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi.
2.1. Xương bị hoại tử do chấn thương
Nguyên nhân phổ biến nhất của hoại tử xương do chấn thương là gãy dưới chỏm xương đùi có di lệch, ít gặp hơn là gãy liên mấu chuyển. Tỉ lệ xương bị hoại tử sau trật khớp liên quan chủ yếu tới mức độ nặng của tổn thương nhưng nếu trật khớp không được xử trí sớm thì tỉ lệ có thể cao hơn. Gãy xương và trật khớp có thể làm chèn ép hoặc đứt mạch máu kế cận dẫn đến hoại tử xương.
2.2. Xương bị hoại tử không do chấn thương
Các nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tình trạng hoại tử xương không do chấn thương là:
- Uống rượu nhiều. Nguy cơ xương bị hoại tử tăng lên khi uống >3 đơn vị rượu một ngày (hoặc > 500 mL ethanol/ tuần) trong nhiều năm.
- Sử dụng corticosteroid kéo dài. Nguy cơ xương bị hoại tử tăng lên khi dùng prednisone >20 mg một ngày trong vài tuần đến vài tháng (hoặc các corticoid khác với liều tương đương), liều tích luỹ trên 2000 mg.
- Một số bệnh được điều trị bằng corticoid (ví dụ như lupus ban đỏ hệ thống) có liên quan đến hoại tử xương. Các bằng chứng cho thấy nguy cơ xương bị hoại tử ở những bệnh nhân này chủ yếu liên quan đến việc sử dụng corticosteroid hơn là do bệnh gây ra. Khoảng 20% trường hợp là do tự phát. Hoại tử xương hàm xuất hiện ở một số bệnh nhân điều trị bằng bisphosphonate tĩnh mạch liều cao. Hoại tử chỏm xương đùi cả hai bên gặp ở 60% người bệnh.
- Hoại tử xương khớp gối tự phát (SONK hoặc SPONK) là tình trạng tổn thương khu trú tại mâm chày hoặc lồi cầu xương đùi ở nữ giới lớn tuổi (nam giới cũng có thể bị). Nguyên nhân gây ra SONK có thể là do gãy mỏi xương (là gãy xương sau các hoạt động thông thường mà không phải do chấn thương trực tiếp).
- Một số bệnh lý di truyền làm tăng nguy cơ bệnh hoại tử xương, ví dụ như rối loạn đông máu do thiếu antithrombin III, thiếu protein S, protein C hoặc các kháng thể kháng cardiolipin.
Xem ngay: Hoại tử (tiêu) chỏm xương đùi: Căn bệnh nguy hiểm diễn biến âm thầm
3. Cơ chế sinh lý bệnh của hoại tử xương
Hoại tử xương làm tế bào xương và tủy xương bị chết. Cơ chế bệnh hoại tử xương không do chấn thương bao gồm tắc mạch máu do huyết khối trong lòng mạch, do cục máu đông do mỡ hoặc chèn ép mạch máu từ bên ngoài.
Sau khi mạch máu bị tổn thương, các quá trình sửa chữa của cơ thể cố gắng loại bỏ mảnh xương bị hoại tử và thay thế bằng các mô mới. Nếu kích thước nhồi máu nhỏ, đặc biệt nếu ở vị trí không phải chịu nhiều trọng lượng cơ thể, các quá trình sửa chữa này có thể sẽ thành công. Tuy nhiên, sửa chữa khoảng không thành công xảy ra ở khoảng 80% bệnh nhân, nhồi máu tiến triển dần dẫn tới hoại tử.
Hoại tử xương thường gây ảnh hưởng cho các đầu xương dài, làm bề mặt xương bị dẹt và không đều, cuối cùng có thể dẫn tới thoái hóa và biến dạng khớp.
4. Triệu chứng của hoại tử xương
4.1 Triệu chứng trên lâm sàng
Các triệu chứng của bệnh hoại tử xương bao gồm:
- Vùng xương bị hoại tử có thể không có triệu chứng trong vài tuần đến vài tháng sau khi mạch máu bị tổn thương. Mặc dù đau cũng có thể diễn biến cấp tính nhưng thông thường đau sẽ tăng dần sau đó. Cùng với tiến triển xẹp khớp, đau cũng tăng lên và nặng hơn khi vận động hay chịu trọng lực, đau giảm khi nghỉ ngơi.
- Ở khớp háng, hoại tử vô khuẩn gây ra đau vùng háng có thể lan ra mông hoặc xuống đùi làm hạn chế vận động và khó khăn khi đi lại.
- Hoại tử xương khớp gối tự phát thường gây đau khớp gối một cách đột ngột mà không có chấn thương trước đó. Vị trí đau và tính chất khởi phát đột ngột có thể giúp phân biệt với tình trạng hoại tử xương cổ điển. Đau thường ở vị trí mâm chày và mặt trong lồi cầu xương đùi, thường xuất hiện khi có tràn dịch khớp, khi chạm vào, đau khi vận động làm bệnh nhân khó đi lại.
- Hoại tử chỏm xương cánh tay thường ít gây đau và tàn tật hơn so với gối và khớp háng.
- Nếu hoại tử xương tiến triển, người bệnh sẽ đau và giới hạn vận động, mặc dù vận động thụ động ít gây đau vận động chủ động. Có thể có tràn dịch với dịch khớp không viêm, đặc biệt là ở khớp gối.
4.2. Hình ảnh học
- X-quang xương khớp có thể không nhìn thấy bất thường trong nhiều tháng. Những phát hiện sớm nhất trên phim X – quang là những vùng xơ hóa và tăng thấu quang. Dấu hiệu liềm trăng dưới sụn, xẹp bề mặt sụn và biến đổi thoái hóa rõ xuất hiện ở giai đoạn sau.
- Khi chụp X – quang xương khớp cho hình ảnh bình thường hoặc không rõ chẩn đoán, nên chụp MRI xương vì có độ đặc hiệu và độ nhạy cao hơn. Tốt nhất là chụp cả 2 khớp háng.
- Xạ hình xương có độ đặc hiệu và độ nhạy thấp hơn MRI xương nên ít khi được chỉ. Hiếm khi chụp CT - Scan mặc dù đôi khi cũng có giá trị để phát hiện tổn thương khớp không nhìn thấy trên phim X – quang và MRI.
- Các xét nghiệm máu ít giá trị trong việc phát hiện bệnh hoại tử xương. Tuy nhiên, có thể làm xét nghiệm máu để phát hiện các bệnh lý đi kèm như bất thường hemoglobin, rối loạn đông máu, rối loạn lipid máu.
5. Điều trị hoại tử xương như thế nào?
5.1. Điều trị không phẫu thuật
Các biện pháp điều trị triệu chứng bao gồm nghỉ ngơi, dùng thuốc giảm đau và vật lý trị liệu.
- Các tổn thương hoại tử xương nhỏ, không triệu chứng có thể không cần điều trị và khỏi bệnh một cách tự nhiên. 80% trường hợp hoại tử nhỏ sẽ tự lành nếu được chẩn đoán sớm.
- Các tổn thương hoại tử xương lớn hơn, dù có triệu chứng hay không có triệu chứng nếu không được điều trị đều sẽ có tiên lượng xấu, đặc biệt khi hoại tử chỏm xương đùi. Vì vậy, hoại tử xương cần phải điều trị sớm để ngăn ngừa hoặc làm chậm sự tiến triển và bảo tồn khớp.
- Phương pháp điều trị xương bị hoại tử không phẫu thuật bao gồm thuốc giảm đau, thuốc điều trị loãng xương như Bisphosphonates và các phương pháp vật lý trị liệu ví dụ như sóng âm và trường điện từ.
- Hoại tử xương khớp gối tự phát thường được điều trị không phẫu thuật.
5.2. Điều trị phẫu thuật
Điều trị phẫu thuật cho hiệu quả cao nhất nếu được tiến hành trước khi khớp bị phá hủy. Phẫu thuật được chỉ định nhiều nhất trong trường hợp hoại tử chỏm xương đùi, vì có tiên lượng xấu hơn hoại tử ở các xương khác nếu không được điều trị.
- Phẫu thuật được thực hiện thường xuyên nhất là giải chèn ép lõi vì làm tăng khả năng liền vùng tổn thương và không làm gây phá hủy khớp. Phẫu thuật này tiến hành bằng cách lấy một hoặc nhiều lõi xương từ vùng hoại tử hoặc tạo ra nhiều lỗ hay đường rạch nhỏ để giảm áp lực trong xương và kích thích quá trình sửa chữa. Giải áp lõi là kỹ thuật đơn giản và tỷ lệ bị biến chứng rất thấp. Trong khoảng 6 tuần đầu sau thủ thuật, người bệnh sẽ sử dụng nạng hoặc khung đi bộ để bảo vệ vùng xương bị tổn thương khỏi chịu trọng lượng. Đa số các báo cáo cho thấy kết quả tốt ở 65% người bệnh nói chung và 80% người bị tổn thương chỏm xương đùi nói riêng. Tuy nhiên, các kết quả của báo cáo cũng cho thấy tỷ lệ cần thay khớp háng toàn bộ cũng thay đổi nhiều. Nói chung, khoảng 20% - 35% bệnh nhân cần thay khớp háng toàn bộ.
- Các phẫu thuật khác như cắt đầu gần xương đùi và ghép xương có hoặc không kèm mạch máu đòi hỏi nhiều về mặt kỹ thuật và phải hạn chế chịu trọng lượng lên đến 6 tháng. Phẫu thuật cắt xương nên được tiến hành ở các trung tâm lớn, giàu kinh nghiệm và đủ phương tiện nhằm đạt được hiệu quả tối ưu.
- Tiêm tủy tự thân vào vùng xương bị hoại tử là một phương pháp nhiều hứa hẹn đang được nghiên cứu.
- Nếu xẹp chỏm xương đùi và thoái hóa ổ cối gây đau, biến dạng khớp và tàn tật nhiều thì phẫu thuật thay khớp háng là cách duy nhất để tăng khả năng vận động và giảm đau hiệu quả. Thông thường là thay toàn bộ khớp háng. Kết quả tốt đến rất tốt đạt được ở 95% trường hợp thay khớp gối và khớp háng toàn bộ, tỷ lệ biến chứng thấp và người bệnh có thể thực hiện các hoạt động sống hàng ngày trong vòng 3 tháng. Đa phần khớp gối và khớp háng giả tồn tại từ 15 đến 20 năm.
- Ngoài thay khớp háng toàn bộ, có hai lựa chọn thay thế là phẫu thuật thay khớp bề mặt và phẫu thuật thay khớp bán phần. Thay khớp bề mặt bằng cách chèn hai mũ kim loại, một vào chỏm xương đùi và một vào ổ cối, tạo ra khớp nối kim loại - kim loại. Thay khớp bán phần thì chỉ đặt mũ kim loại vào đầu xương đùi. Phẫu thuật này chỉ mang tính chất tạm thời và chỉ được thực hiện nếu tổn thương giới hạn ở chỏm xương đùi. Hiện nay, hai loại phẫu thuật này ít được thực hiện do khớp giả thất bại, gia tăng các biến chứng tại chỗ và những ảnh hưởng lâu dài của vật liệu kim loại lên cơ thể.
- Hoại tử xương vùng vai và gối có thể điều trị nội khoa nhưng nếu mức độ nặng có thể có chỉ định phẫu thuật thay khớp một phần hay toàn bộ.
Bệnh hoại tử xương là tình trạng xương bị nhồi máu khu trú, có thể tự phát hoặc do nguyên nhân cụ thể. Có nhiều nguyên nhân gây hoại tử xương, nếu không được thăm khám và chẩn đoán sớm có thể để lại những biến chứng nguy hiểm. Do đó, khi có dấu hiệu của bệnh bạn nên đến các trung tâm y tế để thăm khám và điều trị.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: niams.nih.gov, msdmanuals.com