Định lượng inhibin B để làm gì?

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Đỗ Thị Hoàng Hà - Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng.

Rối loạn nội tiết tố sẽ gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt hàng ngày cũng như các vấn đề về tâm sinh lý, chất lượng đời sống tình dục và khả năng sinh con. Định lượng inhibin B giúp đánh giá khả năng sinh sản ở cả nam giới và nữ giới.

1. Inhibin B là gì?

Inhibin là những nội tiết tố có cấu trúc dị dimer (heterodimeric protein hormone), gồm hai tiểu phần đồng đẳng, một tiểu phần alpha kết hợp với một tiểu phần beta A hoặc beta B, để tạo ra hai loại inhibin lần lượt là inhibin A và inhibin B. Inhibin A và B được chế tiết bởi các tế bào hạt của buồng trứng trong quá trình phát triển nang noãn ở nữ giới và các tế bào Sertoli của tinh hoàn ở nam giới chỉ chế tiết Inhibin B. Inhibin B là một chất tổng hợp ức chế glycoprotein không đồng nhất và là xét nghiệm đánh giá trực tiếp hơn so với các xét nghiệm khác về hoạt động của buồng trứng trên nữ giới.

2. Điều hòa nội tiết trong quá trình sinh tinh ở nam giới

Quá trình hình thành tinh trùng ở nam giới được điều hòa bằng các nội tiết tố sinh sản trong cơ thể. Quá trình sinh tinh và sản xuất androgen của tinh hoàn được điều hòa bởi trục dưới đồi – tuyến yên – tinh hoàn. Các yếu tố liên quan đến quá trình sinh tinh bao gồm GnRH, FSH, LH, testosterone, prolactin và inhibin B.

Sự sinh tinh và tổng hợp nội tiết của tinh hoàn chịu sự điều phối của vùng dưới đồi và tuyến yên. Các nội tiết tố của tuyến yên đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa hoạt động của tinh hoàn bao gồm LH, FSH và prolactin.

Vùng dưới đồi bài tiết nội tiết tố GnRH theo dạng xung có tác dụng kích thích tuyến yên tổng hợp và bài tiết ra FSH và LH. Cũng giống như vùng dưới đồi, tuyến yên bài tiết hai nội tiết tố này dưới dạng xung. Tại tinh hoàn FSH gắn vào các thụ thể trên bề mặt tế bào Sertoli, kích thích sản xuất tinh trùng. Ngoài ra, trên tế bào Sertoli còn có các thụ thể tiếp nhận testosterone, cả FSH và testosterone đều cần thiết cho quá trình sản sinh tinh trùng.

Các tế bào kẽ ( tế bào Leydig) có tác dụng tổng hợp và bài tiết ra testosterone. Ở nam giới bình thường, mỗi ngày bài tiết khoảng 6 mg testosterone, trong đó khoảng 98% tồn tại dưới 2 dạng: dạng gắn kết với SHBG (Sex Hormon Binding Globulin – Globulin mang hormone giới tính – chiếm khoảng 30%) và dạng gắn kết lỏng lẻo với albumin (chiếm khoảng 68%) , chỉ có một phần nhỏ testosterone ở dạng tự do và testosterone gắn với albumin mới có hoạt tính sinh học. Hormon LH của vùng dưới đồi kích thích các tế bào Leydig tổng hợp và bài tiết testosterone. Hai nội tiết tố này tác động trực tiếp và chủ yếu lên tế bào Sertoli và tế bào Sertoli đóng vai trò điều phối hoạt động sinh tinh.

Testosterone tại chỗ đảm trách quá trình kích thích sản sinh tinh trùng. Ngoài ra, testosterone vào máu gây ra một số ảnh hưởng đến các cơ quan khác trong cơ thể làm phát triển các đặc tính sinh học của nam giới (mọc lông, thay đổi giọng nói, phát triển cơ..) . Nồng độ testosterone trong lòng ống sinh tinh cao gấp 100 lần so với nồng độ của nó trong máu.


Testosterone chỉ có thể duy trì hoạt động sinh tinh
Testosterone chỉ có thể duy trì hoạt động sinh tinh

Testosterone chỉ có thể duy trì hoạt động sinh tinh. Để khởi phát quá trình sinh tinh, cần sự có mặt của FSH và sự kiểm soát bởi hormone LH. Chức năng nội tiết của tinh hoàn chủ yếu do tế bào Leydig đảm nhiệm. Các tế bào Leydig của tinh hoàn tổng hợp hầu hết lượng androgen của cơ thể, còn lại dưới 5% được tuyến thượng thận tiết ra. Testosterone được tiết ra từ tế bào Leydig có thể đi vào máu và bạch mạch đến các cơ quan trong cơ thể hoặc đi vào ống sinh tinh. Để đạt được nồng độ cao trong biểu mô ống sinh tinh, testosterone gắn với protein gắn kết androgen (ABP) và được vận chuyển chủ động vào biểu mô ống sinh tinh.

Sự phóng thích LH của tuyến yên chịu sự chi phối của nồng độ testosterone trong máu theo cơ chế phản hồi (feedback). Nồng độ testosterone trong máu cao sẽ ức chế trục hạ đồi và tuyến yên làm giảm tiết LH, dẫn tới tế bào Leydig giảm tiết testosterone. Ngược lại nếu nồng độ testosterone trong máu thấp sẽ kích thích vùng dưới đồi và tuyến yên gây tăng tiết LH, kích thích tế bào Leydig tăng tổng hợp testosterone. Tế bào Sertoli còn tiết một số chất đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa chức năng sinh sản như: protein gắn kết adrogen (ABP), inhibin B. Inhibin B có vai trò điều hòa nồng độ FSH và điều hòa một số tế bào tham gia quá trình sinh tinh, khi số lượng tinh trùng cao thì inhibin B được tiết ra và nó ức chế tuyến yên tiết FSH và vùng dưới đồi tiết GnRH. Khi mật độ tinh trùng < 20 triệu/ml thì sự tiết inhibin B sẽ giảm xuống.

Như vậy nồng độ testosterone và số lượng tinh trùng được sản xuất ra bởi tinh hoàn phản ánh sự cân bằng giữa ba bộ nội tiết tố gồm: nội tiết tố hướng sinh dục kích thích trực tiếp lên tinh hoàn tiết testosterone, GnRH kích thích gián tiếp tinh hoàn thông qua tác động lên tuyến yên tiết FSH và LH, testosterone và inhibin B tác động lên vùng dưới đồi và tuyến yên theo cơ chế điều hòa ngược.

3. Inhibin B đối với nữ giới


Inhibin A và inhibin B được ứng dụng trong chẩn đoán ung thư buồng trứng
Inhibin A và inhibin B được ứng dụng trong chẩn đoán ung thư buồng trứng

Ở nữ giới, inhibin B được tiết ra chủ yếu bởi các nang nhỏ đang phát triển. Nồng độ trong huyết thanh của inhibin A và inhibin B dao động trong chu kỳ kinh nguyệt, trong đó nồng độ inhibin B tăng sớm ở đầu giai đoạn nang noãn (follicular phase), đạt đỉnh cùng thời điểm với sự suy giảm nồng độ FSH ở giữa giai đoạn nang noãn. Sau đó nồng độ inhibin B giảm dần ở cuối giai đoạn nang noãn, và duy trì ở mức thấp trong giai đoạn hoàng thể (luteal phase).

Thời điểm nồng độ inhibin B tăng lên gợi ý nó giữ vai trò nhất định trong quá trình hình thành nang noãn thông qua điều hòa ngược âm tính lên sự sản xuất FSH. Ở thời kỳ mãn kinh, do không còn nang trứng, nồng độ inhibin A và inhibin B trong huyết thanh ở mức rất thấp, hoặc không thể phát hiện được.

Inhibin A và inhibin B được ứng dụng trong chẩn đoán ung thư buồng trứng. Sự tăng nồng độ inhibin A và/hoặc inhibin B trong huyết thanh đã được phát hiện ở một số bệnh nhân có các khối u tế bào hạt. Sự tăng inhibin B được báo cáo trong 89% tới 100% số bệnh nhân, và trên những bệnh nhân này nồng độ inhibin B có xu hướng tăng đến 60 lần so với khoảng trị số tham khảo. Inhibin B cũng là một dấu ấn thích hợp để phát hiện các khối u biểu mô nhày với 55% tới 60% số trường hợp xuất hiện tăng nồng độ inhibin B. Tuy nhiên inhibin B không phải là một dấu ấn tốt để phát hiện các khối u biểu mô không nhày, bởi nó chỉ tăng trong khoảng 15% tới 35% số bệnh nhân. Inhibin cùng với CA 125 là một bộ dấu ấn tốt để phát hiện ung thư buồng trứng. CA 125 kém nhạy khi phát hiện các khối u nhầy và u tế bào hạt, do đó khi kết hợp chúng bù trừ nhược điểm cho nhau. Inhibin A và inhibin B không được sử dụng đối với phụ nữ mãn kinh bởi trên những người này nồng độ của chúng rất thấp. Và trên những phụ nữ tiền mãn kinh, nồng độ inhibin cũng rất khó diễn giải bởi nó thay đổi phụ thuộc vào chu kỳ

kinh nguyệt.

4. Định lượng inhibin B có tác dụng gì?


Nồng độ inhibin B tăng trong khoảng 89% tới 100% số bệnh nhân bị u tế bào hạt, và khoảng 55% tới 60% số bệnh nhân bị u biểu mô nhầy
Nồng độ inhibin B tăng trong khoảng 89% tới 100% số bệnh nhân bị u tế bào hạt, và khoảng 55% tới 60% số bệnh nhân bị u biểu mô nhầy

4.1 Đối với nam giới

Dựa trên cơ chế của quá trình sinh tinh ở nam giới có thể thấy inhibin B giữ vai trò trong điều hòa số lượng tinh trùng. Trong các xét nghiệm nội tiết đánh giá chức năng ngoại tiết (chức năng sinh tinh) của tinh hoàn, bên cạnh định lượng FSH, định lượng inhibin B là chỉ điểm nội tiết quan trọng nhất của quá trình sinh tinh, bởi khi có rối loạn quá trình sinh tinh thì sẽ dẫn tới nồng độ inhibin B thấp và nồng độ FSH tăng cao, qua đó giúp phân biệt bất thường mật độ tinh trùng là do tại tinh hoàn hay không do tại tinh hoàn.

4.2 Đối với nữ giới

  • Nồng độ inhibin B tăng trong khoảng 89% tới 100% số bệnh nhân bị u tế bào hạt, và khoảng 55% tới 60% số bệnh nhân bị u biểu mô nhầy. Nồng độ inhibin B bình thường không loại trừ được khả năng bệnh nhân có bị u buồng trứng hay không, và trong trường hợp này cần kiểm tra thêm nồng độ của inhibin A. Trên thực tiễn lâm sàng, không được tuyệt đối hóa vai trò của inhibin khi khẳng định hay phủ nhận bất kì một tình trạng bệnh lý ác tính nào, cần kết hợp giá trị nồng độ inhibin huyết thanh với các dấu hiệu và kết quả khác trước khi đưa ra kết luận.
  • Đối với những bệnh nhân đã phẫu thuật ung thư buồng trứng, nồng độ inhibin B sẽ giảm xuống rất thấp hoặc ở ngưỡng không thể phát hiện sau phẫu thuật. Sự tăng nồng độ inhibin B sau điều trị gợi ý tình trạng bệnh còn tồn tại, tái phát hoặc tiến triển. Ở những bệnh nhân tái phát, sự tăng inhibin B xuất hiện sớm hơn các dấu hiệu lâm sàng khác. Ở những bệnh nhân đáp ứng điều trị, nồng độ inhibin B ở mức bình thường.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe