Ý nghĩa lâm sàng xét nghiệm bổ thể C3 và C4

Bài viết được viết bởi ThS.BS Trần Quỳnh Trang, Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

Bổ thể gồm hơn 20 loại protein huyết thanh khác nhau, góp phần bảo vệ cơ thể bằng nhiều con đường khác nhau. C3, C4 là hai thành phần chính của hệ thống bổ thể, giúp đánh giá chức năng của hệ thống bổ thể và vai trò của nó trong việc đáp ứng miễn dịch, các bệnh nhiễm trùng hay các bệnh tự miễn.

Bổ thể được sử dụng để chỉ một thành phần trong huyết thanh không bền với nhiệt, có thể ly giải vi khuẩn, góp phần bảo vệ cơ thể bằng những con đường khác nhau.

Bổ thể có thể opsonin hóa vi khuẩn để tăng cường sự thực bào, tập trung và hoạt hóa các tế bào khác nhau bao gồm các tế bào bạch cầu đa nhân và các đại thực bào, tham gia vào sự điều hòa các đáp ứng của kháng thể, hỗ trợ trong việc dọn dẹp phức hợp miễn dịch và các tế bào chết theo chương trình.

Bổ thể bao gồm hơn 20 loại protein huyết thanh khác nhau được sản xuất bởi một loạt các tế bào bao gồm: tế bào gan, đại thực bào và tế bào biểu mô ruột.


Protein của hệ thống bổ thể
Protein của hệ thống bổ thể

Một số protein bổ thể liên kết với globulin miễn dịch hoặc các thành phần khác của màng tế bào. Nhiều thành phần khác ở dạng tiền enzym, khi hoạt hóa sẽ phân cắt một hoặc nhiều protein bổ thể khác. Sau khi cắt một số các protein của bổ thể thì tạo ra các mảnh có khả năng hoạt hóa tế bào, tăng tính thấm thành mạch hoặc opsonin hóa vi khuẩn.

Hoạt hóa bổ thể có thể được chia thành bốn con đường: con đường cổ điển, con đường lectin, con đường cạnh và con đường tấn công màng. Bất kể được hoạt hóa theo con đường nào, sản phẩm cuối cùng được tạo ra sẽ là một phức chất protein có khả năng phá hủy màng tế bào của kháng nguyên.

Để đánh giá chức năng của hệ thống bổ thể cũng như vai trò của nó trong việc đáp ứng miễn dịch, các bệnh nhiễm trùng hay các bệnh tự miễn, hai thành phần chính của hệ thống bổ thể thường được định lượng: C3, C4.

Mặc dù sự thiếu hụt di truyền của C3 là cực kỳ hiếm, nhưng sự thiếu hụt trong các thành phần khác phổ biến hơn (mặc dù vẫn rất hiếm) có thể dẫn đến tỷ lệ C3 thấp. Sự thiếu hụt di truyền ở C4 hiếm khi được phát hiện.


Hoạt hóa bổ thể
Hoạt hóa bổ thể

Định lượng C3, C4 giúp:

Nồng độ bình thường C4: 20-50 mg/dl.

Nồng độ C4 tăng trong: ung thư, viêm khớp dạng thấp, viêm đốt sống do bệnh thấp (rheumatoid spondylitis).

Nồng độ C4 thấp cho thấy bệnh phức tạp miễn dịch. Chúng được tìm thấy phổ biến nhất trong các trường hợp SLE (systemic lupus erythematosus: lupus ban đỏ hệ thống) hoạt động, viêm mạch máu dạng thấp (nhưng không phải là viêm khớp dạng thấp không biến chứng trong đó nồng độ C4 thường là bình thường), viêm gan mạn thể hoạt động, thiếu hụt C4 bẩm sinh, phù mạch di truyền.

Nồng độ bình thường C3: 90-180mg/dl. Giá trị lên đến hai lần giới hạn trên này được tìm thấy trong giai đoạn cấp tính.

Nồng độ C3 máu tăng trong: thấp khớp cấp, viêm khớp dạng thấp, ung thư.

Nồng độ C3 máu giảm trong: SLE, viêm cầu thận, nhiễm khuẩn huyết. Nồng độ C3 thấp liên quan đến mức độ thấp của C4 cho thấy con đường cổ điển được kích hoạt. Chúng được tìm thấy phổ biến nhất trong các trường hợp SLE hoạt động. Nồng độ C3 thấp liên quan đến mức độ bình thường của C4 chứng tỏ kích hoạt con đường thay thế gợi ý bệnh truyền nhiễm hoặc hoạt động của yếu tố thận.

Mặc dù ở một số bệnh nhân SLE lâu dài, nồng độ C3 vẫn ở mức thấp, điều này không nhất thiết biểu thị bệnh đang hoạt động, mức giảm đột ngột thường cho thấy sự trầm trọng của bệnh và nguy cơ tổn thương thận.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe