Viêm gan do HBV tái hoạt động, mặc dù có thể phòng ngừa được, cũng có thể trở nên nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong. Viêm gan do HBV tái hoạt động thường được báo cáo ở những bệnh nhân đang trải qua tác dụng ức chế miễn dịch mạnh như hóa trị liệu, đặc biệt là những bệnh nhân đang trải qua liệu pháp có chứa rituximab cho các bệnh ác tính về huyết học và bệnh nhân ghép tế bào gốc.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Viêm gan do HBV tái hoạt động
Đối với những bệnh nhân bị nhiễm HBV không hoạt động và thậm chí đã khỏi, bộ gen HBV vẫn tồn tại trong gan. Hệ thống miễn dịch kiểm soát biểu hiện của những bộ gen im lặng này. Khi các tế bào miễn dịch, quan trọng nhất là tế bào B, bị ức chế hoặc tiêu diệt, điều này có thể dẫn đến tình trạng nhiễm HBV dường như đã khỏi được tái hoạt động. Nồng độ kháng thể bề mặt viêm gan B (HBsAb) thấp hoặc hoàn toàn không có HBsAb là một yếu tố nguy cơ gây tái hoạt động HBV. Tuy nhiên, không thể dự đoán được sự tái hoạt động của HBV bằng nồng độ HBsAb ban đầu hoặc bằng những thay đổi theo thời gian. Do đó, các bác sĩ lâm sàng nên lưu ý rằng mọi liệu pháp ức chế miễn dịch đều có nguy cơ tái hoạt động, bất kể cơ chế tác động của nó là gì.
Vai trò của các xét nghiệm huyết thanh đối với viêm gan
Xét nghiệm huyết thanh có lợi cho chẩn đoán bằng xét nghiệm phân tử khi được chỉ định để hướng dẫn quản lý viêm gan B. Vai trò chính của các dấu hiệu bao gồm dự đoán nguy cơ HCC, phân tầng nguy cơ chữa khỏi một phần (được định nghĩa là kiểm soát vi-rút ngoài liệu pháp) và chữa khỏi chức năng [được định nghĩa là thanh thải huyết thanh kháng nguyên HBs (HBsAg) cộng với DNA HBV huyết thanh không phát hiện được trong ít nhất 6 tháng, có liên quan đến cải thiện kết quả lâm sàng. Các sản phẩm dịch mã của vi-rút, chẳng hạn như kháng nguyên viêm gan e, HBsAg định lượng và Ag liên quan đến lõi viêm gan B (HBcr), có thể giảm thông qua điều trị bao gồm các chất tương tự nucleos(t)ide (NA) và interferon α pegylated (peg-IFNα).
Những chất này có giá trị trong việc xác định giai đoạn bệnh, phân định các điểm cuối của quá trình điều trị và dự đoán kết quả lâm sàng, bao gồm nguy cơ HCC và chữa khỏi một phần/chức năng. Hiện tại, các hệ thống phát hiện nhiễm HBV dựa trên dấu ấn sinh học có tính phân cực cao. Một là hệ thống đo lường vừa hoàn toàn tự động vừa rất nhạy, trong khi hệ thống còn lại là hệ thống đơn giản dành cho xét nghiệm tại chỗ ở những khu vực có nguồn lực hạn chế. Gần đây, một xét nghiệm HBcrAg mới, hoàn toàn tự động, độ nhạy cao (iTACT-HBcrAg, giá trị ngưỡng: 2,1 LogIU/mL) đã được phát triển. Xét nghiệm này phản ánh DNA vòng khép kín cộng hóa trị trong gan, cũng như DNA HBV huyết thanh. Điều này có thể khiến xét nghiệm này hữu ích như một phương án thay thế cho DNA HBV để theo dõi sự tái hoạt động của HBV và dự đoán sự xuất hiện của HCC. Ngay cả ở những bệnh nhân không phát hiện được DNA HBV huyết thanh hoặc mất HBsAg, HBcrAg vẫn có khả năng phát hiện được. Nồng độ HBcrAg thấp hơn có liên quan đến việc giảm sự xuất hiện của HCC ở CHB. Do đó, việc theo dõi HBcrAg có thể phù hợp để xác định hiệu quả điều trị, đối với cả thuốc đã được chấp thuận và thuốc mới hiện đang được phát triển.
Hiện nay, khuyến cáo của hướng dẫn quốc tế là dự phòng kháng HBV cho phụ nữ mang thai có tải lượng vi-rút cao, nhằm ngăn ngừa lây truyền HBV từ mẹ sang con. Tuy nhiên, phần lớn (> 95%) cá nhân bị nhiễm HBV sống ở các quốc gia không có khả năng định lượng DNA HBV. Do đó, xét nghiệm HBcrAg nhanh chóng và dễ dàng sẽ có giá trị như một xét nghiệm tại chỗ. Thật không may, do thiếu tác dụng đối với DNA vòng khép kín cộng hóa trị, khuôn mẫu phiên mã vi-rút và sao chép bộ gen, nên điểm cuối này hiếm khi đạt được thông qua liệu pháp hiện tại. Đồng thời, tỷ lệ chẩn đoán vẫn dưới 10% trên toàn thế giới, mặc dù đã có các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm giá rẻ để chẩn đoán và quản lý, được thiết lập từ nhiều thập kỷ trước. Các xét nghiệm mới cung cấp các phương pháp tiếp cận linh hoạt hơn để xác định tình trạng sức khỏe của bệnh nhân đã được phát triển với mục tiêu cải thiện mối liên kết với việc chăm sóc.
Hiện nay, việc quản lý nhiễm HBV dựa vào việc theo dõi liên tục và phù hợp hoạt động của vi-rút, sự tiến triển của bệnh và phản ứng điều trị
Định lượng HBV core Ab (qAnti-HBc) có thể đóng vai trò là một dấu ấn sinh học không xâm lấn mới, có thể giúp giải quyết nhiều vấn đề chẩn đoán. Nó đã được chứng minh là có mối tương quan có ý nghĩa với các giai đoạn nhiễm trùng, mức độ viêm gan và xơ gan, đợt cấp trong quá trình nhiễm trùng mãn tính và sự hiện diện của các bệnh nhiễm trùng tiềm ẩn.
Hơn nữa, mức độ qAnti-HBc đã được công nhận là có khả năng dự đoán tình trạng thanh thải huyết thanh tự phát hoặc do điều trị đối với viêm gan B e-Ag (HBeAg) và HBsAg, tái phát sau khi ngừng điều trị, tái nhiễm sau LT và tái hoạt vi-rút khi ức chế miễn dịch. Tuy nhiên, qAnti-HBc không nên được coi là một xét nghiệm chẩn đoán “phù hợp với tất cả” và có thể cải thiện đáng kể giá trị chẩn đoán và tiên lượng của xét nghiệm này bằng cách kết hợp xét nghiệm này với các dấu ấn sinh học chẩn đoán khác như HBV DNA, HBeAg, HBsAg định lượng và HBsAb. Ngoài ra, các bộ dụng cụ chẩn đoán qAnti-HBc thương mại vẫn cần được cải thiện về tính khả dụng.
Tài liệu tham khảo
1. Cooke GS, . Accelerating the elimination of viral hepatitis: a Lancet Gastroenterology & Hepatology Commission. Lancet Gastroenterol Hepatol. 2019;4:135-184
2. Sinn DH, Cho EJ, Kim JH, Kim DY, Kim YJ, Choi MS. Current status and strategies for viral hepatitis control in Korea. Clin Mol Hepatol. 2017;23:189-195
3. Usuda D, et allCurrent perspectives of viral hepatitis. World J Gastroenterol 2024; 30(18): 2402