Tùng hương là phần còn lại sau khi cất nhựa của cây Thông đuôi ngựa lấy tinh dầu có vị đắng ngọt, mùi thơm, tính ôn. Có tác dụng khu phong diệt khuẩn, sinh cơ, giảm đau, chữa mụn, nhọt và ghẻ lở.
1. Vị thuốc tùng hương là gì?
Tùng hương còn gọi là tùng chi, tùng cao, tùng giao. Tên khoa học Resina Pini-Colophonium, thuộc họ thông Pinaceae. Vị thuốc tùng hương hay tùng chi là phần đặc còn lại sau khi cất nhựa của cây thông đuôi ngựa với nước.
Cây thông là 1 loại cây to, cao tới 20-30m đường kính thân có thể tới 2m, thân thẳng vỏ xù xì, nứt nẻ. Lá hình kim bao giờ cũng xanh tươi, chỉ có một gân nhỏ, mọc tụ hai hay ba lá, tùy theo loài. “Hoa” là những khối hình nón gần như không cuống.
Ở Việt Nam, Lào, Campuchia có mấy loài sau đây:
- Thông nhựa (Pinus merkusii Jungh et De Vries) thuộc họ thông Pinaceae: Cây gỗ cao, lá hình kim dài, xanh đậm hai lá trong một bẹ chung, hạt có cánh dẹt, cho nhiều nhựa, do đó mang tên thông nhựa.
- Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana Lambert) cũng thuộc họ thông Pinaceae: Trên thân cây có vỏ nứt, mảnh tán dày, dựng đứng. Cây thông đuôi ngựa cho ít nhựa và thường mọc xen kẽ với cây thông nhựa.
- Ở miền Nam Trung Bộ và Campuchia còn có thông ba lá (Pinus kesiya Royle) thuộc cùng họ thông Pinaceae: Mỗi bẹ có ba lá.
Tại Trung Quốc, ở Quảng Đông và phúc kiến, người ta khai thác cây thông đuôi ngựa (mã vĩ tùng) (Pinus massoniana Lambert) và miền Bắc Trung Quốc khai thác cây du tùng (Pinus tabulaeformis Carr) thuộc cùng họ.
2. Phân bố, thu hái và chế biến cây tùng hương
- Ở miền Bắc nước ta thông được trồng tập trung nhiều nhất ở Quảng Ninh, người ta ước tính thông chiếm hàng vạn hecta chạy suốt từ đông sang tây, sau đến Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, một ít ở Bắc Kạn, Thái Nguyên.
- Tại miền Nam, trên cao nguyên Langbiang giữa Phan Rang-Phan Thiết thông chiếm diện tích khoảng chục vạn hecta Lào, Campuchia cũng có nhiều.
- Thông ưa đất cát. Trồng thông bằng hạt. Sau 4-5 năm trồng thì bắt đầu tỉa, phải tỉa sao cho cành đụng nhau nhưng không xen kẽ vào nhau.
- Thường trồng thông sau 15-20 năm mới bắt đầu khai thác nhựa. Khi ấy cây có đường vòng chừng 60cm. Thường người ta phân biệt hai loại thông: Thông để sống lâu thì cứ 4 năm lấy nhựa một lần và chỉ lấy nhựa khi nơi thân cây cách mặt đất 1,5m có đường vòng 1m. Cây thông 60 năm tuổi cho nhựa nhiều nhất, sau đó lượng nhựa giảm dần.
- Thời gian lấy nhựa bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 10. Nhưng ngay từ tháng 2, người ta đã cạo cho mỏng bớt vỏ trên một khoảng rộng 10-15cm, dài 60-80cm. Đến tháng ba, người ta dùng một loại cuốc nhỏ riêng đẽo một mảnh vỏ rộng khoảng 9cm, sau 1cm, vào lớp gỗ gác cao 3-4cm.
- Nhựa chảy từ vết thương ra nhưng rồi rất chóng ngừng lại. Đó là giai đoạn chảy nhựa chảy từ vết thương ra nhưng rồi rất chóng ngừng lại. Đó là giai đoạn chảy nhựa ban đầu có tinh chất sinh lý: Phần nhựa dự trữ trong cây bị dốc ra. Quanh vết thương sẽ thành một lớp gỗ mới với rất nhiều mạch bài tiết. Cạo lần sau, nhựa sẽ chảy lại; nhựa chảy lần này do tính chất bệnh lý. Hễ thấy ngừng chảy lại cạo lại, mỗi tuần cạo một lần. Năm đầu đẽo cao khoảng 60cm, năm thứ tư khoảng chừng 3m.
- Muốn giữ cây sống lâu, cứ sau bốn năm lấy nhựa lại nghỉ một năm. Năm đầu nạo ở phía đông, năm sau nạo cách chỗ năm trước 1200. Nhựa chảy ra theo máng kẽm dính vào thân cây được hứng vào một bình nhỏ bằng sành. Sau đó cho vào một thùng sắt hay gỗ thể tích 17-18 lít.
- Ở Quảng Ninh, một cây thông trung bình cho khoảng 18% tinh dầu và 60% tùng hương, như vậy mỗi cây một năm cho khoảng 700g tinh dầu và 2kg colophon. Nếu lấy nhựa kiệt cho đến khi cây chết, thì một cây thông có thể cung cấp tới 8kg nhựa hoặc thậm chí nhiều hơn nữa. Mùa mưa năng suất cung cấp nhựa kém hơn, nhưng tỷ lệ tinh dầu lại cao hơn mùa khô ráo.
- Nhựa thông sau khi thu hoạch về có thể đem đi tinh chế để sử dụng: Quy trình là cho nước vào nhựa rồi đun nóng. Sau đó cặn và nước sẽ lắng xuống dưới và nhựa tốt sẽ nổi ở trên.
- Muốn tinh chế được tùng hương, cho nhựa thông vào trong nước vào nồi rồi cất kéo hơi nước. Sau đó tinh dầu sẽ được cất theo hơi nước và ta được tinh dầu thông, chất còn lại trong nồi cất được gọi là tùng hương. Nếu trước khi người ta cất tinh dầu, nhựa thông đã được tinh chế thì tùng hương sẽ sạch và có ít tạp chất. Nếu nhựa thông không được tinh chế trước khi cất được tinh dầu thì sau khi cất nhựa thông, ta sẽ phải tinh chế lại tùng hương với nước. Chất bẩn sẽ lắng trong nước. Khi nấu cần dùng dung môi như benzene để hoà tan và lọc.
3. Công dụng và liều dùng của vị thuốc tùng hương
Theo tài liệu y học cổ truyền: Tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn độc, có tác dụng táo thấp, khu phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng (hết đau, hết mủ). Thường được sử dụng để chữa mụn nhọt, ghẻ lở.
Cho đến nay, tùng hương thường chỉ thấy hay được dùng nấu cao dán nhọt, hầu như không thấy dùng uống trong.
4. Bài thuốc kinh nghiệm của vị thuốc tùng hương
- Đối với băng huyết, nôn ra máu: Đem đốt tùng hương hứng lấy 10g muội khói. Sau đó đem đi hòa với 20g da trâu đã đun chảy.
- Điều trị hen suyễn: Cần có 200g tùng hương, 200g tỏi, 100g dầu vừng, 100g riềng, 4g long não, rồi nấu thành cao, dán vào huyệt.
- Chữa mụn nhọt lâu ngày không liền miệng: Chuẩn bị tùng hương, hoàng liên, hoàng cầm, khổ sâm, xà sàng tử, đại hoàng, khô phàn, hồ phấn, thủy ngân với lượng thích hợp. Sau đó mang các vị đi tán nhỏ, đun cùng mỡ lợn, rồi dán trực tiếp vào vùng bị bệnh.
Hy vọng bài viết trên đây sẽ cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích về vị thuốc tùng hương. Người đọc cần tham khảo chi tiết về vị thuốc để ứng dụng cho phù hợp, đạt được hiệu quả điều trị tốt nhất.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.