Sử dụng dịch truyền tĩnh mạch trong gây mê hồi sức

Bài viết được tư vấn chuyên môn Bác sĩ chuyên khoa I Trần Thị Ngát - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng.

Truyền dịch cho bệnh nhân là điều đầu tiên cần thực hiện trước bất kỳ cuộc phẫu thuật nào. Duy trì đường dịch truyền tĩnh mạch có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp cấp cứu khi có diễn biến bất thường và bù lại lượng máu bị mất.

1. Tổng quan về dịch truyền tĩnh mạch

Mục đích chính của việc dùng những dung dịch truyền tĩnh mạch trong chuyên khoa gây mê hồi sức là nhằm duy trì đường truyền tĩnh mạch, đảm bảo hồi sức cho bệnh nhân trong các ca phẫu thuật, nhất là các trường hợp cần hồi phục lại thể tích tuần hoàn.

Hiện nay có hai nhóm dung dịch truyền tĩnh mạch được dùng phổ biến tại khoa gây mê hồi sức là: Dịch truyền tinh thể và Dung dịch keo. Trong đó lại chia thành nhiều loại nhỏ khác nhau. Việc chọn lựa các dung dịch này để sử dụng cần phải dựa vào những yếu tố sau:

  • Tính chất sinh hóa;
  • Dược động học;
  • Dược lực học;
  • Tác dụng phụ của dung dịch;
  • Hoàn cảnh sử dụng.

Truyền dịch tĩnh mạch trong gây mê hồi sức là việc làm bắt buộc
Truyền dịch tĩnh mạch trong gây mê hồi sức là việc làm bắt buộc

2. Dịch truyền tinh thể

2.1. Dịch truyền tinh thể đẳng trương

  • Dung dịch NaCl 0,9%

Thành phần gồm 154 mmol Na+ và 154 mmol Cl-, áp lực thẩm thấu 308 m0sm/l. Natri là ion chủ yếu của dịch ngoại bào, tạo ra 90% áp lực thẩm thấu của khoang. Truyền Na+ là cần thiết trong trường hợp giảm thể tích tuần hoàn. Dung dịch NaCl 0,9% khi cung cấp vào máu chỉ giữ lại 25% thể tích trong lòng mạch.

  • Dung dịch Ringer Lactat

Thành phần của dung dịch bao gồm 130 mmol/l Na+, 4 mmol/l K+, 1 - 3 mmol/l Ca++, 108 mmol/l Cl- và lactat 28 mmol/l, áp lực thẩm thấu 278m0smo/l. Dung dịch này khi truyền vào máu chỉ giữ lại trong lòng mạch 19% thể tích truyền.

  • Dung dịch ngọt đẳng trương (glucose 5%)

Mỗi 100 ml dung dịch có 5,5 gam glucose, chuyển hóa trong cơ thể tạo ra 20 Kcal, áp lực thẩm thấu là 278 m0sm/l.

Nhìn chung, truyền dung dịch tinh thể đẳng trương có ưu và nhược điểm sau:

  • Ưu điểm: Có thể dùng cho tất cả trường hợp giảm thể tích tuần hoàn mà không ảnh hưởng đến quá trình đông máu, không có nguy cơ dị ứng, dễ pha chế và giá thành rẻ;
  • Nhược điểm: Tăng thể tích huyết tương kém, thời gian lưu giữ trong lòng mạch ngắn, thể tích bù phải gấp 3 - 4 lần thể tích máu mất, dễ dẫn đến nguy cơ phù kẽ, nhất là phù não và phổi ở những người bị giảm thể tích tuần hoàn nặng.

Dung dịch ngọt đẳng trương (glucose 5%) dùng trong truyền tĩnh mạch
Dung dịch ngọt đẳng trương (glucose 5%) dùng trong truyền tĩnh mạch

2.2. Dịch truyền tinh thể ưu trương

  • Dung dịch NaCl ưu trương

Nồng độ NaCl 3%, 5%, 7,5%, 10%, thời gian lưu giữ ở trong khoang mạch máu khoảng 1 giờ. Các dung dịch này rút nước từ các tế bào gần khoang mạch máu và khoang gian bào, có tác dụng tăng thể tích huyết tương cao. Dịch NaCl ưu trương giúp hồi phục thể tích tuần hoàn nhanh, làm tăng thể tích huyết tương, và cải thiện tiền gánh thất trái, đồng thời giảm hậu gánh.

  • Dung dịch ngọt ưu trương (glucose 10%)

Mỗi 100 ml dung dịch có 11 gam glucose, chuyển hóa trong cơ thể tạo ra 40 Kcal, và áp lực thẩm thấu là 55 m0sm/l. Lưu ý, khi không có chỉ định đặc biệt thì không nên truyền glucose cho các đối tượng có nguy cơ thiếu máu não.

3. Dung dịch keo

3.1. Dung dịch keo tự nhiên

Albumin là dung dịch keo tự nhiên có nguồn gốc từ người, được xem như là dung dịch truyền tĩnh mạch. Albumin chiếm khoảng 70% áp lực keo và 55% protein huyết tương - một thành phần quan trọng của huyết thanh, trọng lượng phân tử là 69 kDa.

Dung dịch Albumin được sử dụng có nồng độ 4% (dạng keo thấp hơn huyết tương) và 20% (dạng keo ưu trương hơn huyết tương). Thời gian bán thải của albumin là 18 ngày, tương ứng thời gian hệ thống lưới võng nội mô thoái hóa. Ở người thường, khả năng gia tăng thể tích huyết tương rơi vào khoảng 18 - 20 ml/gr.


Truyền dung dịch keo cần theo chỉ định và người bệnh cần được theo dõi trong quá trình truyền
Truyền dung dịch keo cần theo chỉ định và người bệnh cần được theo dõi trong quá trình truyền

3.2. Dung dịch keo tổng hợp

Các dung dịch thuộc nhóm này và được phân định từng loại khác nhau tùy theo tính chất sinh hoá. Dựa trên cấu tạo của trọng lượng phân tử và chỉ số đa phân tán mà cũng được phân định thành từng loại. Các chất dạng keo này có dung môi là một dung dịch điện giải NaCl 0,9% hoặc Ringer Lactat.

  • Dextran

Được pha chế từ các dung môi nuôi cấy vi khuẩn Lactobacillus leuconostoc mesenteroides, trọng lượng phân tử trung bình tính theo cân nặng của dextran. Chất này đào thải theo nhiều đường khác nhau cho thấy tính phức tạp dược động học. Sau khi truyền vào tĩnh mạch, phần lớn dung dịch đào thải qua thận, số khác đi vào khoảng kẽ, hoặc trở lại trong khoang mạch máu qua đường bạch huyết, hay được chuyển hoá trong một số cơ quan và sinh CO2. Thời gian bán thải trong huyết tương của dextran liên quan với chức năng của thận, cụ thể D40 là 2 giờ và D70 là 24 giờ.

  • Gelatin

Gelatin là những polypeptid từ thuỷ phân collagen xương bò. Chất này được chia thành 2 loại là: gelatin dung dịch được chuyển đổi (GFM) và gelatin có cầu nối urê (GPU). Trọng lượng phân tử theo cân nặng là khoảng 35 kDa, còn theo số lượng phân tử có hoạt tính thẩm thấu thì bằng 23 kDa. Những dung dịch này ít bị phân tán, ưu trương nhẹ, độ thẩm thấu keo gần bằng của huyết tương, không thay đổi ở nhiệt độ từ 4 - 20oC. Thời gian lưu giữ trong khoang mạch máu sau khi truyền khoảng 5 giờ, xấp xỉ 20 - 30% liều dùng đi qua khoang gian bào. Đào thải chủ yếu qua đường thận và không tích lũy ở mô.

  • Hydroxyethylamidon (HEA, HES)

Là các polysaccharid tự nhiên và được dẫn xuất từ ngô. Hydroxyethylamidon (HEA, HES) là dung dịch đẳng trương có trọng lượng phân tử 200.000 daltons, với dung môi là NaCl 0,9%. Thể tích huyết tương tăng từ 100% đến khoảng 140% thể tích được truyền, đào thải nhanh qua thận rồi ra nước tiểu. Thời gian bán đào thải khoảng 18 - 24 giờ. Trong lâm sàng, hay sử dụng HAES - Steril 6% hoặc 10%, mỗi lít chứa 60 hoặc 100g Poly (0,2 Hydroxy Ethyl) Starch. Liều tối đa không quá 2g/kg/ngày. Mỗi gram HEA ở trong khoang mạch máu giữ được 30ml nước.


Dung dịch truyền Hydroxyethylamidon (HES)
Dung dịch truyền Hydroxyethylamidon (HES)

4. Chỉ định dùng dịch truyền tĩnh mạch

Theo nguyên tắc, dung dịch tinh thể sẽ thích hợp khi giảm thể tích tuần hoàn mức độ nhẹ. Ngược lại, sử dụng rộng rãi dung dịch tinh thể đẳng trương với mục đích duy trì hoặc gia tăng thể tích huyết tương có nguy cơ dẫn đến phù kẽ.

Dung dịch keo cần được dùng phối hợp khi bị giảm thể tích tuần hoàn nặng, hoặc có kèm theo thay đổi tính thấm thành mạch. Chẳng hạn như trong trường hợp: nhiễm khuẩn, phù não, hay chạy tuần hoàn ngoài cơ thể.

Nhìn chung, vẫn ưu tiên dung dịch tinh thể (đẳng trương hoặc ưu trương) và dung dịch keo. Các loại dịch có nguồn gốc từ máu và chế phẩm của máu chỉ dùng khi có chỉ định cần thiết.

Việc chỉ định sử dụng các loại dung dịch khác nhau sẽ phụ thuộc vào đặc điểm dược động học, dược lực học và hoàn cảnh gây ra giảm thể tích tuần hoàn. Ngoài ra còn xét tới các tác dụng phụ của từng loại dịch. Một vài tác dụng phụ có thể kể đến như:

  • Thừa khối lượng máu lưu hành;
  • Pha loãng máu;
  • Ảnh hưởng đến quá trình đông máu và nguy cơ dị ứng (đặc thù từng loại dịch).

Cho đến nay, chưa có dung dịch truyền tĩnh mạch nào được xem là chỉ định phù hợp nhất với tất cả trường hợp giảm thể tích máu lưu hành. Vì vậy, tùy thuộc vào hoàn cảnh lâm sàng, nguyên nhân và điều kiện thực tế mà ekip gây mê hồi sức sẽ lựa chọn các loại dung dịch cho thích hợp.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ thăm khám, điều trị và phòng ngừa các bệnh lý. Khi thực hiện quy trình thăm khám, điều trị tại Vinmec, Quý khách hàng sẽ được đón tiếp và sử dụng cơ sở vật chất, hệ thống máy móc hiện đại đi kèm với các dịch vụ y tế hoàn hảo dưới sự chỉ dẫn, tư vấn của các bác sĩ giỏi, được đào tạo bài bản ở cả trong và ngoài nước.

Khách hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline tại đây để được hỗ trợ.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe