Trẻ em mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) bị cản trở bởi những suy nghĩ, nỗi sợ hãi không mong muốn và căng thẳng. Vì thế, chúng cố gắng giảm bớt bằng cách cưỡng chế như đếm hoặc rửa tay. Bài viết này giải thích rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em ảnh hưởng như thế nào, cách chẩn đoán và các phương pháp điều trị hiệu quả nhất.
1. Tổng quan về rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em
Theo CDC, rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một chứng rối loạn của não, ảnh hưởng xấu đến hành vi và gây ra sự lo lắng dữ dội ở những người mắc bệnh này. Những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế phải trải qua những ám ảnh khiến họ khó chịu và có thể cảm thấy mình phải làm gì với những suy nghĩ đó, ngay cả khi hành động của họ không thực sự có ý nghĩa.
Đối với trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế, những suy nghĩ và sự thôi thúc phải thực hiện một số hành động nhất định vẫn tồn tại, ngay cả khi chúng cố gắng phớt lờ hoặc khiến trẻ bỏ đi. Trẻ em có thể mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) khi những suy nghĩ không mong muốn và những hành vi mà trẻ cảm thấy phải làm do những suy nghĩ đó xảy ra thường xuyên, chiếm nhiều thời gian (hơn một giờ mỗi ngày), cản trở hoạt động hoặc khiến trẻ rất khó chịu. Những suy nghĩ được gọi là ám ảnh. Các hành vi được gọi là cưỡng chế.
Cha mẹ và những người chăm sóc trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế đều phải hiểu rõ để có thể giúp bé điều trị hiệu quả. Mặc dù các dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em và người lớn có nhiều điểm giống nhau, nhưng vẫn tồn tại những khác biệt quan trọng. Ngoài ra, các dấu hiệu của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em có thể giống với các dấu hiệu của rối loạn tăng động giảm chú ý, tự kỷ và hội chứng Tourette. Đánh giá đầy đủ về y tế và tâm lý có thể giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán chính xác.
2. Nguyên nhân dẫn đến chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Các chuyên gia chưa biết nguyên nhân chính xác của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em nên chỉ có thể chỉ ra sự kết hợp của yếu tố sinh học và môi trường.
Yếu tố sinh học:
- Cấu trúc não: Các nghiên cứu hình ảnh cho thấy mối liên hệ giữa rối loạn ám ảnh cưỡng chế và các bất thường ở vỏ não trước, cấu trúc dưới vỏ của não.
- Di truyền: Mặc dù không có “gen rối loạn ám ảnh cưỡng chế” cụ thể, nhưng có bằng chứng cho thấy các phiên bản hoặc alen cụ thể của một số gen nhất định có thể báo hiệu khả năng bị tổn thương nhiều hơn. Hơn nữa, rối loạn ám ảnh cưỡng chế đã được tìm thấy là xảy ra trong các gia đình.
- Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa mức độ không đủ của chất dẫn truyền thần kinh, serotonin, trong sự phát triển của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em. Một số bằng chứng tồn tại cho thấy, cha mẹ có thể truyền sự kém hiệu quả của serotonin cho con cái của họ. Bởi vì điều này, các nhà khoa học cũng nghi ngờ một thành phần di truyền trong sự phát triển rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Yếu tố môi trường:
- Bị lạm dụng thể chất hoặc tinh thần.
- Thay đổi mạnh mẽ môi trường sống.
- Bệnh lý như nhiễm trùng liên cầu.
- Cái chết của một người thân yêu.
- Cha mẹ ly hôn.
- Các vấn đề hoặc thay đổi liên quan đến trường học như chuyển trường, bạo lực học đường.
- Các sự kiện hoặc trải nghiệm đau buồn khác.
Vì không có xét nghiệm nào trong phòng thí nghiệm cho rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em, các bác sĩ dựa trên chẩn đoán của họ để đánh giá tâm thần toàn diện, sau khi loại trừ các nguyên nhân thực thể khác gây ra các triệu chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
3. Các triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em
Các triệu chứng trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế liên quan đến những suy nghĩ hoặc hình ảnh lặp đi lặp lại được gọi là ám ảnh. Sự ép buộc đại diện cho những hành vi mà chúng lặp đi lặp lại để xua đuổi những suy nghĩ.
Ví dụ về những suy nghĩ ám ảnh ở trẻ em rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể bao gồm:
- Quá bận tâm đến vi trùng, bụi bẩn, bệnh tật.
- Những suy nghĩ, hình ảnh gây phiền nhiễu và không mong muốn về những thứ bạo lực hoặc đáng lo ngại, như làm hại người khác.
- Bày tỏ những nghi ngờ lặp đi lặp lại, chẳng hạn như liệu bếp đã tắt chưa, cửa đã khóa chưa.
- Suy nghĩ thâm thúy về việc cha mẹ bị tổn thương.
- Quá bận tâm đến tính đối xứng, trật tự và chính xác.
- Lo lắng thái quá về việc bị ốm hoặc khiến người khác bị ốm.
- Những suy nghĩ rối ren không phù hợp với việc đào tạo tôn giáo cá nhân.
- Quá muốn biết hoặc nhớ những sự kiện có vẻ rất tầm thường.
- Chú ý một cách không hợp lý đến các chi tiết.
- Quá lo lắng về điều gì đó tồi tệ xảy ra như tai nạn xe hơi hoặc kẻ gian đột nhập vào nhà.
- Suy nghĩ hung hăng và thôi thúc (có thể xảy ra nhiều hơn ở thanh thiếu niên).
Ví dụ về hành vi cưỡng chế ở trẻ rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể bao gồm:
- Rửa tay quá mức, thường xuyên, có khi đến cả 100 lần một ngày.
- Kiểm tra và kiểm tra lại nhiều lần để đảm bảo bếp đã tắt hoặc khóa cửa.
- Cố gắng tuân theo các quy tắc trật tự tự đặt ra, như sắp xếp các vật dụng cá nhân trong phòng theo một cách riêng và trở nên rất khó chịu nếu ai đó phá vỡ sự sắp xếp.
- Các trình tự hay nghi lễ phức tạp phải được thực hiện hoàn toàn giống nhau mỗi lần.
- Đếm và kể lại quá nhiều.
- Mối bận tâm với việc sắp xếp thứ tự hoặc nhóm các đối tượng.
- Liên tục tìm sự trấn an từ bạn bè và gia đình.
- Đặt câu hỏi giống nhau nhiều lần và quá mức.
- Lặp lại các từ do chính mình hoặc người khác nói.
- Lặp lại âm thanh, từ ngữ, con số hoặc âm nhạc.
Những nỗi ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em khác với người lớn ở chỗ:
- Trẻ em bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường có những ám ảnh cụ thể liên quan đến cái chết của cha mẹ chúng.
- Nỗi ám ảnh của trẻ em hiếm khi nhấn mạnh đến chủ đề tình dục, mặc dù điều quan trọng cần lưu ý là thanh thiếu niên thực sự có thể gặp phải tỷ lệ ám ảnh tập trung vào tình dục nhiều hơn.
- Các nghi lễ hoặc sự ép buộc của trẻ em có thể có nhiều khả năng liên quan hoặc tập trung vào các thành viên trong gia đình.
- Trẻ em bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể tích trữ thường xuyên hơn so với người lớn mắc chứng rối loạn này.
- Rối loạn ám ảnh cưỡng chế khởi phát ở thời thơ ấu dường như cũng báo hiệu nguy cơ cao bị rối loạn tic và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).
- Trẻ em thực hiện các hành vi này vì chúng cảm thấy rằng những hành vi đó sẽ ngăn chặn những điều tồi tệ xảy ra hoặc khiến chúng cảm thấy tốt hơn. Tuy nhiên, hành vi này thường không liên quan đến nguy cơ thực sự về một điều gì đó tồi tệ đang xảy ra hoặc hành vi đó là cực đoan, chẳng hạn như rửa tay nhiều lần mỗi giờ.
- Một lầm tưởng phổ biến là rối loạn ám ảnh cưỡng chế có nghĩa là phải thực sự ngăn nắp và có trật tự. Đôi khi, các hành vi rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể liên quan đến việc dọn dẹp, nhưng nhiều khi người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế quá tập trung vào một việc phải làm đi làm lại, thay vì làm có tổ chức. Những ám ảnh và cưỡng chế cũng có thể thay đổi theo thời gian.
4. Điều trị rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Bước đầu tiên để điều trị người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế là bác sĩ sẽ tiến hành thăm khám toàn trạng và thực hiện một số bài test đánh giá. Một đánh giá toàn diện của Bác sĩ tâm thần sẽ xác định xem lo lắng hoặc đau khổ có liên quan đến ký ức về một sự kiện đau buồn đã thực sự xảy ra hay không hoặc liệu nỗi sợ hãi có dựa trên những suy nghĩ và niềm tin khác hay không. Bác sĩ tâm thần cũng nên xác định xem người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế có rối loạn tics hiện tại hay trong quá khứ. Lo lắng hoặc trầm cảm và các hành vi gây rối cũng có thể xảy ra với rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Có khoảng 5% rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em liên quan đến một phản ứng tự miễn dịch trong não được gọi là PANDAS. PANDAS là dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế được cho là do nhiễm trùng cùng một loại vi khuẩn gây viêm họng và ban đỏ. Khi hệ thống miễn dịch của trẻ chống lại nhiễm trùng, nó trở nên bối rối và bắt đầu tấn công hạch nền trong não. Dạng PANDAS của rối loạn ám ảnh cưỡng chế có một số đặc điểm chính, chẳng hạn như các triệu chứng khởi phát nhanh chóng, giúp bác sĩ phân biệt nó với các dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế điển hình hơn ở trẻ em. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ những trẻ em có khuynh hướng di truyền với rối loạn ám ảnh cưỡng chế hoặc tics mới dễ mắc phải dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế này. Dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế PANDAS cũng có thể dẫn đến một số khác biệt trong điều trị.
Trong hầu hết các trường hợp, phương pháp điều trị được khuyến nghị hiện nay cho rối loạn ám ảnh cưỡng chế khởi phát thời thơ ấu là sự kết hợp của liệu pháp nhận thức - hành vi các nhân hoặc nhóm (CBT) và các loại thuốc làm tăng mức serotonin hóa thần kinh như thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)
4.1. Liệu pháp hành vi nhận thức
Một trong những hình thức phổ biến nhất và hiệu quả nhất của liệu pháp hành vi đối với rối loạn ám ảnh cưỡng chế là liệu pháp phòng ngừa phản ứng và tiếp xúc được sửa đổi ở trẻ em (ERP). ERP liên quan đến việc cho trẻ em tiếp xúc với sự lo lắng do những ám ảnh của chúng gây ra và sau đó ngăn chặn việc sử dụng các nghi thức để giảm bớt lo lắng của chúng. Chu kỳ phòng ngừa phơi nhiễm và ứng phó này được lặp lại cho đến khi trẻ không còn bị ám ảnh và cưỡng chế nữa.
Đối với những đứa trẻ mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, chúng thường yêu cầu người khác tham gia vào hành vi cưỡng chế của chúng và các thành viên trong gia đình thường bị bắt buộc làm theo những yêu cầu đó. Để việc điều trị có kết quả, việc cưỡng chế cần phải dừng lại và các thành viên trong gia đình phải nhận thức được điều này.
Cha mẹ cũng nên là một nguồn lực giúp các chuyên gia trong việc phát triển các các cách trị liệu cho chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em. Hàng ngày, cha mẹ có thể giúp nhắc nhở trẻ nhỏ rằng rối loạn ám ảnh cưỡng chế là “kẻ xấu”. Một kỹ thuật như vậy có thể giúp giảm thiểu khả năng đứa trẻ cảm thấy bị đổ lỗi hoặc xấu hổ khi mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
4.2. Sử dụng thuốc
Nếu trẻ mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế nghiêm trọng, việc điều trị sẽ gồm cả CBT và thuốc. SSRI thường được sử dụng để giúp giảm lo lắng của trẻ, tuy nhiên, những loại thuốc này phải được sử dụng thận trọng ở trẻ em và thanh thiếu niên, vì chúng có thể làm tăng nguy cơ tự tử ở nhóm tuổi này.
Ba loại thuốc SSRI được FDA chấp nhận để sử dụng cho trẻ em và thanh thiếu niên bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế là:
- Luvox (thuốc fluvoxamine): Sử dụng cho trẻ từ 8 tuổi trở lên.
- Prozac (thuốc fluoxetine): Sử dụng cho trẻ từ 8 tuổi trở lên.
- Zoloft (thuốc sertraline): Sử dụng cho trẻ từ 6 tuổi trở lên.
Nếu OCD do PÁDAS gây ra, việc điều trị có thể bao gồm:
- Thuốc kháng sinh (penicillin, azithromycin).
- Globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch.
- NSAID và corticosteroid.
- Trao đổi huyết tương.
- Cắt amidan.
5. Phòng ngừa rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Hiện không biết chính xác lý do tại sao một số trẻ em phát triển rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Có khả năng là một thành phần sinh học và thần kinh, một số trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế cũng có hội chứng Tourette hoặc các rối loạn tics khác. Có một số nghiên cứu cho rằng các vấn đề sức khỏe khi mang thai và khi sinh có thể khiến rối loạn ám ảnh cưỡng chế dễ mắc hơn, đây cũng là một trong nhiều lý do quan trọng để hỗ trợ sức khỏe của phụ nữ khi mang thai.
Việc nuôi dạy một đứa trẻ bị mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể là một thách thức, nhưng vẫn có một cách để đối phó. Hiểu biết các thông tin về rối loạn ám ảnh cưỡng chế là những bước đầu tiên cần thiết mà mỗi phụ huynh có con bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế nên làm để trở thành người phụ giúp hiệu quả cho quá trình trị liệu. Đồng thời, hiểu về bệnh của con cũng sẽ giúp bạn giảm căng thẳng và dễ dàng hơn trong việc chăm sóc bé.
Cuối cùng, điều quan trọng là đừng bao giờ từ bỏ hy vọng. Mặc dù không có "thuốc chữa" cho rối loạn ám ảnh cưỡng chế, nhưng có rất nhiều phương pháp điều trị khác nhau, vì vậy nếu chiến lược đầu tiên không hiệu quả, hãy tiếp tục thử. Đôi khi nó chỉ đơn giản là vấn đề tìm đúng bác sĩ trị liệu hoặc sự kết hợp phù hợp giữa thuốc và liệu pháp tâm lý. Với phương pháp điều trị thích hợp, nhiều trẻ em có thể thuyên giảm các triệu chứng và học được các chiến lược đối phó để phát triển trong cuộc sống hàng ngày.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: verywellmind.com, cdc.gov, healthyplace.com