Phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ ngực

Phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ ngực được coi là một chuẩn mức trong điều trị phình động mạch chủ ngực suốt hàng chục năm trước đây. Hiện nay phương pháp này dần được thay thế bằng những kỹ thuật mới hiệu quả hơn.

1. Điều trị phình động mạch chủ ngực

Động mạch chủ là động mạch lớn nhất cơ thể, giúp dẫn máu chứa nhiều oxy được bơm ra từ tim đi nuôi các bộ phận trong cơ thể. Đoạn động mạch chủ chạy xuyên qua ngực gọi là động mạch chủ ngực, có nhiệm vụ cung cấp máu cho tim, não, đầu cổ, cột sống.

Phình động mạch chủ ngực là tình trạng một đoạn động mạch chủ ngực giãn rộng, với đường kính đoạn giãn ≥ 1.5 lần đường kính của động mạch bình thường lân cận. Phình động mạch chủ ngực được chia thành 2 dạng đó là:

  • Dạng giả phình: Nguyên nhân thường do nhiễm trùng, chấn thương hoặc loét xuyên thấu động mạch chủ, làm tổn thương một điểm trên thành mạch, tổn thương tiến triển làm mặt bên của động mạch chủ phồng lên dạng túi, không đối xứng.
  • Dạng phình thật: Động mạch chủ ngực bị thay đổi cấu trúc do nhiều nguyên nhân như tuổi cao, tăng huyết áp, hút thuốc lá, mỡ máu cao, xơ vữa động mạch gây tắc hẹp động mạch chủ ngực,.... Sự thay đổi này làm một đoạn của động mạch chủ ngực yếu đi, dãn ra tạo thành một túi phình. Túi phình thường có hình thoi đối xứng, vỏ túi phình có cấu trúc thành mạch.

Bóc tách động mạch chủ ngực là hiện tượng có dòng máu chảy qua một vết rách nhỏ của thành mạch để tạo thành một dòng chảy mới nằm giữa lớp trong và lớp ngoài của động mạch. Phình động mạch chủ ngực và bóc tách động mạch chủ ngực là hai bệnh lý có liên quan chặt chẽ với nhau. Phình mạch động mạch chủ ngực có thể là nguyên nhân của bóc tách động mạch chủ ngựcbóc tách động mạch chủ ngực cũng có thể gây phình mạch vì sự bóc tách làm thành mạch yếu đi.

Bệnh phình động mạch chủ ngực thường có ít triệu chứng, bệnh được phát hiện tình cờ khi bệnh nhân được chỉ định chụp X-quang ngực khi thăm khám một bệnh lý khác. Một số ít bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình như đau mơ hồ ở cổ và hàm dưới, đau lưng, đau vai trái hoặc đau giữa hai xương bả vai. Khi phình lớn chèn ép các cấu trúc xung quanh như khí quản, thực quản,... sẽ gây khó nuốt, khó thở. Nếu bóc tách động mạch chủ ngực xảy ra, người bệnh sẽ xuất hiện cơn đau đột ngột như xé vùng trước ngực hoặc sau lưng.

Phình động mạch chủ ngực là một bệnh lý nguy hiểm, trong đó biến chứng nguy hiểm nhất là vỡ phình động mạch, dẫn đến xé rách thành động mạch gây xuất huyết đe dọa tính mạng người bệnh.

Điều trị phình động mạch chủ ngực trong giai đoạn đầu khi đường kính khối phình còn nhỏ, chưa có chỉ định can thiệp ngoại khoa, sẽ được điều trị nội khoa dựa vào nguyên nhân gây bệnh. Như phình động mạch do tăng huyết áp sẽ được điều trị bằng thuốc trị cao huyết áp, chế độ ăn giảm muối, tăng cường vận động,.. Phình động mạch do xơ vữa thành mạch, sẽ được điều trị bằng thuốc giảm mỡ máu, chế độ ăn giảm cholesterol và chất béo, bỏ hút thuốc lá,... Điều trị phình động mạch chủ ngực do nhiễm trùng bằng kháng sinh liều cao, phổ rộng, chống viêm, nâng cao thể trạng,...

Đối với phình động mạch chủ thật (phình do bệnh lý), điều trị phình động mạch chủ ngực bằng ngoại khoa khi đường kính khối phình ≥ 2 lần đường kính động mạch chủ lân cận hoặc đường kính khối phình ≥ 35mm nhưng theo dõi định kỳ thấy tăng ≥ 4mm/mỗi 6 tháng hoặc đường kính khối phình ≥ 35mm kết hợp nhiều huyết khối trong khối phình. Bệnh nhân phải có toàn trạng tốt, không có chống chỉ mổ do bệnh lý khác. Khi phình động mạch chủ có dấu hiệu vỡ hay dọa vỡ phải được can thiệp ngoại khoa ngay lập tức.

Đối với phình giả, can thiệp ngoại khoa được chỉ định với mọi mức độ phình nếu người bệnh có toàn trạng tốt, không có chống chỉ định mổ do các bệnh lý khác.


Phình động mạch do xơ vữa thành mạch
Phình động mạch do xơ vữa thành mạch

2. Phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ ngực

Phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ ngực bị phình dưới tuần hoàn ngoài cơ thể bằng đoạn mạch nhân tạo là phương pháp điều trị phình động mạch chủ ngực kinh điển. Có nhiều loại mạch nhân tạo khác nhau như mạch Dacon, Gore-tex, mạch tráng bạc,... Mỗi loại mạch nhân tạo có đặc điểm và ưu điểm riêng. Tuy nhiên nhìn chung, phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ ngực là một phẫu thuật chuyên khoa lớn, phức tạp, bệnh nhân phải chịu nhiều đau đớn, thời gian mổ kéo dài với nguy cơ biến chứng và tỷ lệ tử vong cao (trên 50%).

Can thiệp nội mạch (đặt Stent-graft) là phương pháp điều trị mạch máu ít xâm lấn, phát triển trong những năm gần đây và đang thay thế dần phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ truyền thống. Bản chất của phương pháp này là đặt một đoạn mạch ghép vào lồng động mạch chủ có khối phình để thay thế chức năng dẫn máu và vô hiệu hóa túi phình, điều chỉnh dòng máu chảy trong lòng mạch đúng sinh lý. Can thiệp nội mạch đặc biệt có ưu thế ở những bệnh nhân già yếu, thể trạng kém hoặc chống chỉ định với phẫu thuật thay động mạch chủ ngực do các bệnh lý khác như rối loạn đông máu, bệnh lý mạn tính,...Can thiệp nội mạch giúp giảm số ngày nằm viện, giảm các biến chứng và nguy cơ tử vong.

Hybrid là kỹ thuật hiện đại, kết hợp giữa phẫu thuật và can thiệp tim mạch, giúp điều trị hiệu quả các bệnh lý tim mạch phức tạp so với các phương pháp truyền thống. Nếu thực hiện phẫu thuật thay đoạn động mạch chủ ngực trong bệnh lý phình vùng quai động mạch chủ ngực sẽ rất phức tạp, nguy cơ bệnh nhân tử vong là hơn 50%. Tuy nhiên sử dụng kỹ thuật Hybrid giúp bắt cầu giữa động mạch chủ lên và cách động mạch cảnh dưới đòn, sau đó đặt các stent-graft che kín các tổn thương, tỷ lệ tử vong của bệnh nhân sẽ giảm xuống <10%.


Bệnh nhân rối loạn đông máu không được chỉ định can thiệp nội mạch
Bệnh nhân rối loạn đông máu không được chỉ định can thiệp nội mạch

XEM THÊM

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe