Nuốt khó - Khi nào cần nghĩ đến bệnh lý viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan?

Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan (viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan ) là một bệnh mãn tính, qua trung gian miễn dịch do các chất gây dị ứng thực phẩm gây ra, biểu hiện bằng các triệu chứng rối loạn chức năng thực quản và viêm thực quản chiếm ưu thế bởi bạch cầu ái toan.

1. Khi nào cần nghi ngờ và cách chẩn đoán viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan ?

Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan ảnh hưởng đến trẻ em và người lớn ở mọi lứa tuổi thuộc mọi chủng tộc và dân tộc, với các báo cáo về viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan từ các quốc gia trên khắp thế giới. Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan ảnh hưởng đến cả hai giới nhưng nam chiếm ưu thế bởi hệ số khoảng 3 đến 1. Bác sĩ nên nghi ngờ viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan khi bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn chức năng thực quản.

Chứng khó nuốt thực quản được báo cáo bởi 60-100% bệnh nhân viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan và hơn 25% bệnh nhân này đã xảy ra hiện tượng trào ngược thức ăn. Bệnh nhân thường kêu đau ngực, ợ chua và đau bụng trên.


Viêm thực quản bạch cầu ái toan không điều trị, gây các vòng xơ ở đoạn dưới thực quản
Viêm thực quản bạch cầu ái toan không điều trị, gây các vòng xơ ở đoạn dưới thực quản

2. Cần khai thác gì ở tiền sử bệnh nhân nếu nghi ngờ bệnh viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan?

Tiền sử bệnh dị ứng như viêm mũi, hen suyễn, hoặc viêm da dị ứng được tìm thấy ở 50-60% bệnh nhân viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan . Ngoài ra, tiền sử gia đình có viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan hoặc chứng khó nuốt sẽ làm tăng thêm nghi ngờ lâm sàng của bạn đối với viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan .

2.1 Các dấu hiệu trên nội soi

Khi nội soi được thực hiện, các dấu hiệu nội soi của viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan được đánh giá. Các tính năng nội soi của viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan được mô tả bằng cách sử dụng điểm tham chiếu nội soi viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan , EREFS, là viết tắt của các đặc điểm có tiết dịch, vòng niêm mạc, phù nề, rãnh dọc được phát hiện trên nội soi.

Tuy nhiên, không có những đặc điểm nào là đặc hiệu cho viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan và thực quản có thể xuất hiện hoàn toàn bình thường trong khoảng 5-10% trường hợp. Sinh thiết thực quản cho thấy ít nhất 15 bạch cầu ái toan trên quang trường có độ phóng đại cao (quang trường kính hiển vi ) là bắt buộc để chẩn đoán. Các phát hiện mô học điển hình khác bao gồm vi hấp thu bạch cầu ái toan, vùng đáy và / hoặc tăng sản nhú và các khoảng gian bào bị giãn ra. Cũng có thể có xơ hóa nổi bật ở lớp đệm.

Do đó, một bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn chức năng thực quản và ít nhất 15 bạch cầu ái toan trên quang trường có độ phóng đại cao trên sinh thiết thực quản sẽ bị nghi ngờ có viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan , nhưng viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan chỉ được chẩn đoán sau các rối loạn không phải viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan khác (tức là viêm mạch, viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan, bệnh Crohn, bệnh mô liên kết ) có thể gây tăng bạch cầu ái toan thực quản và các triệu chứng thực quản đã được loại trừ.


Hình ảnh nội soi hay gặp với nhiều vòng tròn đồng tâm của viêm thực quản do bạch cầu ái toan (BCAT).
Hình ảnh nội soi hay gặp với nhiều vòng tròn đồng tâm của viêm thực quản do bạch cầu ái toan (BCAT).

2.2 Hoạt chất mới trong bệnh viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan

Eotaxin-3, một chất hóa trị mạnh đối với bạch cầu ái toan, đã được chứng minh là tăng (> 50 lần) trong các mẫu sinh thiết thực quản từ bệnh nhân bị viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan so với nhóm chứng và eotaxin-3 có thể kéo bạch cầu ái toan vào thực quản. Để hiểu động lực đằng sau việc điều chỉnh eotaxin-3, cần có một cuộc thảo luận ngắn gọn về kích hoạt hệ thống miễn dịch. Mỗi ngày, chúng ta ăn vào hàng triệu kháng nguyên có khả năng tạo ra phản ứng miễn dịch.

Nếu một trong những kháng nguyên này nhận được sự chú ý của tế bào trình bày kháng nguyên và tế bào đó trình bày kháng nguyên một cách thích hợp, thì có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch và điều này có thể kích thích sự biệt hóa của tế bào T CD4 + chưa thành công thành tế bào Th1 hoặc Th2. Tế bào Th2 tiết ra các cytokine như interleukin (IL) -5, IL-4 và IL-13, và việc sản xuất quá mức tế bào Th2 là đặc điểm của một số rối loạn dị ứng, bao gồm cả viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan . Trong tế bào biểu mô thực quản của người được nuôi cấy trong ống nghiệm, các cytokine Th2 IL-4 và IL-13 đã được chứng minh là có khả năng kích thích sản xuất và tiết eotaxin-3.

Do đó, những dữ liệu này gợi ý rằng cơ chế bệnh sinh của viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan bắt đầu từ một cá thể nhạy cảm về mặt di truyền, người mà một số chất gây dị ứng thực phẩm kích hoạt hệ thống miễn dịch bằng cách liên kết với các tế bào trình diện kháng nguyên, ở người nhạy cảm về mặt di truyền, tạo ra phản ứng Th2 với việc sản xuất Th2 các cytokine như IL-5, IL-4 và IL-13. IL-5 kích hoạt bạch cầu ái toan cư trú trong tủy xương trong khi IL-13 và IL-4 kích thích sản xuất eotaxin-3 bởi các tế bào biểu mô thực quản. Eotaxin-3 là một chất hóa trị mạnh làm cho các bạch cầu ái toan hoạt hóa đến thực quản và bạch cầu ái toan gây ra tổn thương biểu mô do các sản phẩm thoái hóa của chúng. (Hình 1) Vì vậy, đây là một mô hình hợp lý cho cơ chế bệnh sinh của viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan .

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo

  1. Liacouras CA, Furuta GT, Hirano I, và cộng sự Eosinophilic esophagitis: updated consensus recommendations for children and adults. J Allergy Clin Immunol. 2011;128:3-20.e6; quiz 21-2.
  2. Rhonda F. Souza, Eosinophilic Esophagitis: When to Suspect and Why to Treat with Proton Pump Inhibitors, Dispatches from the guild conference, series #19, practicalgastro.
Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe