Tháng 1/ 2020, Đơn vị sàng lọc ung thư và bệnh lý tuyến vú lành tính (Hay Trung tâm sàng lọc vú) được Vinmec thành lập với mục tiêu trở thành Trung tâm sàng lọc, chẩn đoán, điều trị và tư vấn về ung thư vú cũng như các bệnh lý tuyến vú lành tính hàng đầu Việt Nam.
Đơn vị là nơi triển khai mô hình sàng lọc ung thư vú cập nhật, đồng nhất, quy chuẩn với đội ngũ bác sĩ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, cùng hệ thống máy móc hiện đại, đáp ứng thực hiện các kỹ thuật như siêu âm, chụp X-quang, sinh thiết hay can thiệp chẩn đoán và điều trị ung thư vú, u xơ vú, áp xe vú, viêm xơ hay nang lớn tuyến vú đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Sau đây là những kỹ thuật hiện đang được triển khai thực hiện tại Trung tâm sàng lọc vú:
1. Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh bệnh lý tuyến vú
1.1 Chụp X-quang bệnh lý tuyến vú
Chụp X-quang vú là sử dụng tia X năng lượng thấp để ghi hình cấu trúc tuyến vú. Đây là phương tiện đầu tay được sử dụng để sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú ở giai đoạn sớm, ngay cả khi bệnh nhân không sờ thấy khối hay không phát hiện được bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào. Vì liều tia sử dụng trong chụp X-quang vú thấp (khoảng 0.4mSv), nhỏ hơn nhiều so với chụp X-quang tim phổi, do vậy sự lo lắng do hấp thụ tia X là không cần thiết khi cân nhắc tới lợi ích của phương pháp này.
- Chụp X-quang 2D:
Là phương pháp chụp theo hai tư thế cơ bản là thẳng trên - dưới hoặc chếch trong - ngoài để sàng lọc hoặc chẩn đoán thông thường. Trong trường hợp cần chẩn đoán chi tiết, các phương pháp chụp bổ sung sẽ được bác sĩ cân nhắc chỉ định bệnh nhân thực hiện.
- Chụp X-quang 3D:
Là phương pháp được sử dụng cả trong sàng lọc và chẩn đoán, trong đó nhu mô tuyến vú sẽ được chụp theo từng lát để đánh giá chi tiết và chính xác hơn. Sau đó các lát cắt này sẽ được dựng lại ra hình tổng thể giống như 2D để đánh giá tổng quát. Phương pháp này có độ chính xác cao hơn và cũng không tăng nhiều liều tia X so với phương pháp 2D do chất lượng máy móc ngày càng hiện đại.
Những dấu hiệu điển hình để xác định cần làm sinh thiết vú chẩn đoán ung thư có thể có được trên phim chụp X-quang vú. Hình ảnh trên phim chụp là các khối nghi ngờ bờ không đều hoặc tua gai, những vi vôi hóa có hình dạng và sắp xếp bất thường. Ngoài ra một số triệu chứng khác cũng có thể phát hiện được khi chụp X-quang như bất cân xứng cấu trúc của nhu mô tuyến vú, rối loạn cấu trúc, dày da bất thường, co kéo da, co kéo núm vú và nổi hạch nách, hạch nách vôi hóa...
1.2 Siêu âm vú
Siêu âm là phương tiện linh hoạt được sử dụng ngày càng nhiều. Siêu âm an toàn và không sử dụng tia X, có thể sử dụng được ở cả phụ nữ có thai, cho con bú; độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu âm vú thường cao đặc biệt ở những trường hợp có nhu mô tuyến vú đặc.
- Siêu âm vú 2D:
Siêu âm 2D hay còn có tên gọi là siêu âm bằng tay đầu dò phẳng có thể sử dụng phương pháp siêu âm thời gian thực, siêu âm Doppler đánh giá tính chất tưới máu, hay siêu âm đàn hồi mô để đánh giá độ cứng của tổn thương. Siêu âm 2D đánh giá được các dấu hiệu nghi ngờ ác tính của một khối như bờ tua gai, hình dạng không đều, có bóng cản âm phía sau, có vi vôi hóa bên trong... hoặc các dấu hiệu lân cận như giãn ống tuyến. Ngoài ra siêu âm còn phát hiện được nhiều các tổn thương lành tính hay các tổn thương ranh giới như nang vú, u nhú, u diệp thể... hoặc tổn thương dạng viêm như viêm vú, áp xe vú, lao vú...
- Siêu âm 3D:
Phương pháp siêu âm này cũng được sử dụng nhiều trong sàng lọc và chẩn đoán những trường hợp có đa tổn thương như nang vú hoặc u xơ tuyến vú. Với ưu điểm của siêu âm 3D là có diện tích bề mặt đầu dò thu hình ảnh cao, có thể dựng hình 3 chiều, có thể xem lại hình ảnh. Những trường hợp vú to, dày thường được chỉ định để làm phương pháp này.
Phương pháp sử dụng kỹ thuật siêu âm phối hợp với X-quang vú trong sàng lọc ung thư và bệnh lý tuyến vú lành tính thường đem lại kết quả với độ chính xác cao, tránh bỏ sót tổn thương, đặc biệt ở những người có vú xơ tuyến. Việt Nam là nước có nhiều phụ nữ có mô vú đặc, việc phối hợp với siêu âm nên đặt ra khi bệnh nhân được sàng lọc bằng phương pháp X-quang vú.
Ngoài ra siêu âm cũng là phương tiện linh hoạt, thời gian thực, không ép vú, không dùng tia X, bệnh nhân có tư thế nằm thoải mái nên là phương tiện đầu tay được sử dụng để định hướng cho can thiệp.
1.3 Chụp cộng hưởng từ bệnh lý tuyến vú
Kỹ thuật chụp cộng hưởng từ tuyến vú cũng giống như các kỹ thuật chụp cộng hưởng từ các tạng khác, người bệnh không bị nhiễm tia X, với xung từ trường cộng hưởng của máy chuyên dụng, nhu mô tuyến vú được ghi hình chi tiết với độ phân giải cao qua từng lát cắt ở các mặt phẳng. Phối hợp với thuốc cản từ, có thể đánh giá mức độ ngấm thuốc hay có nhiều mạch máu tới nuôi khối hay không, đồng thời đánh giá được mật độ tế bào trong tổn thương... Thông thường, khối u có nhiều mạch máu và giàu tế bào thường có tính chất ác tính.
Với độ nhạy và độ đặc hiệu cao, cộng hưởng từ tuyến vú được chỉ định trong trường hợp những tổn thương phát hiện trên siêu âm và X-quang vú cần được biết thêm chi tiết như xâm lấn thành ngực, da, núm vú hay không... Ngoài ra cộng hưởng từ được sử dụng để đánh giá đáp ứng sau điều trị, đánh giá phân biệt tổn thương tái phát hay biến chứng sau xạ trị, phẫu thuật ung thư.
Chụp cộng hưởng từ giúp còn được sử dụng như một phương pháp đánh giá sự toàn vẹn của vật liệu nâng ngực - dành cho phụ nữ đã thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực, đánh giá nhu mô tuyến vú còn lại, đánh giá thành ngực cũng như đánh giá các biến chứng sau khi nâng ngực.
2. Các kỹ thuật can thiệp
2.1 Chọc tế bào, hút - bơm rửa áp xe, diệt nang dưới hướng dẫn siêu âm bệnh lý tuyến vú
- Chọc tế bào phết lam:
Là một trong những kỹ thuật can thiệp tối thiểu, phương pháp chọc hút tế bào bằng cách sử dụng một kim nhỏ (22G), thường là đi cùng với xilanh để lấy tế bào. Sau khi đã lấy được mẫu tế bào sẽ tiến hành dàn mỏng tế bào lên lam kính. Các lam kính này sẽ được soi dưới kính hiển vi để đánh giá tính chất các tế bào, xem có tế bào ác tính hay không, hoặc các tế bào điển hình có thể đánh giá được, ví dụ như lao hay các tế bào viêm đặc hiệu. Thông thường, phương pháp này được sử dụng trong những trường hợp tổn thương BIRADS 3, không quá nghi ngờ nhưng bệnh nhân không mong muốn theo dõi đơn thuần. Tuy vậy, do chỉ lấy được tế bào nên độ chính xác của phương pháp này thường không cao. Cần phối hợp với chẩn đoán hình ảnh và theo dõi để chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân.
- Hút - bơm rửa áp xe:
Phương pháp này thường áp dụng trong trường hợp ổ áp xe đã bán lỏng hoặc dịch hóa hoàn toàn. Kim chọc hút thường từ 16G đến 20G tùy theo mức độ đặc của dịch. Nếu dịch mủ đặc có nhiều tạp âm bẩn thường sử dụng kim to để hút, trong trường hợp nếu dịch sữa trong, mịn, có thể sử dụng kim 20G để tránh xâm phạm, giảm đau cho bệnh nhân. Dịch sẽ được hút hết dưới theo dõi của siêu âm, bác sĩ sẽ tiếp tục bơm rửa bằng nước muối sinh lý để làm sạch và phối hợp với dung kháng sinh điều trị theo kháng sinh đồ từ dịch hút ra. Bệnh nhân sẽ được làm siêu âm để theo dõi định kỳ trong quá trình điều trị để đánh giá đáp ứng với điều trị.
- Diệt nang:
Nang tuyến vú là tổn thương lành tính, thường không gây ảnh hưởng tới sức khỏe và cũng không tiến triển thành tổn thương ung thư. Do vậy thông thường, nang tuyến vú là tổn thương không cần điều trị. Tuy nhiên, trong những trường hợp nang tuyến vú to lên, gây đau, chảy máu hoặc nhiễm trùng trong nang, thì vấn đề điều trị cần phải đặt ra. Dưới hướng dẫn của siêu âm, dịch nang sẽ được hút ra gần như hoàn toàn, sau đó bác sĩ sẽ tiêm chất diệt nang (thường là cồn tuyệt đối) với thể tích khoảng 90%, đợi một thời gian rồi rút ra hoàn toàn. Bệnh nhân sẽ được theo dõi lại sau điều trị, phương pháp này an toàn và thường có tỷ lệ thành công trong khoảng 80% các trường hợp, ngược lại với phương pháp hút dịch thông thường, tỷ lệ tái phát dịch của nang hút dịch thường là 80%.
2.2 Sinh thiết kim lõi dưới hướng dẫn siêu âm
Thường được chỉ định cho những trường hợp có phân loại kết quả từ BIRADS 4-5. Sinh thiết kim lõi dưới hướng dẫn siêu âm là phương pháp lấy mẫu là các mảnh mô kích thước khá lớn (kích thước kim sinh thiết lõi từ 14G tương đương với kích thước của một que tăm), số lượng mảnh mô lấy từ 5 mảnh mô, trường hợp mảnh mô không nhiều, rời rạc, bác sĩ sẽ cân nhắc lấy thêm bệnh phẩm. Dưới hướng dẫn siêu âm, bác sĩ can thiệp sẽ đưa dụng cụ gồm có vỏ và lõi kim sinh thiết, với thiết kế đặc biệt để cắt mô và đưa mô ra ngoài trong vỏ kim, tránh tối đa việc chọc nhiều lần làm tổn thương nhu mô tuyến vú lân cận. Mảnh mô lấy ra sẽ được ngâm định hình trong formol, nhuộm bằng các phương pháp đặc biệt để đánh giá cấu trúc mô học của bệnh phẩm. Chẩn đoán được tổn thương là lành tính hay ác tính, mức độ nguy hiểm của tổn thương ác tính cũng như đánh giá được phân loại dưới nhóm của tổn thương ung thư.
2.3 Sinh thiết kim lớn dưới hướng dẫn siêu âm hoặc X-quang
Trong trường hợp tổn thương nhỏ, đặc biệt là vi vôi hóa, hoặc những trường hợp mà bệnh phẩm của kim lõi không đủ lớn để đánh giá tổn thương, bác sĩ sẽ thảo luận với bệnh nhân để sử dụng kim sinh thiết với kích thước lớn hơn (có thể to bằng 2/3 cái đũa), với lực hút chân không để lấy mảnh mô to, đảm bảo chất lượng của chẩn đoán.
Tổn thương phát hiện trên phương tiện chẩn đoán hình ảnh nào sẽ được sử dụng phương tiện đó để hướng dẫn, ví dụ như vi vôi hóa chỉ thấy được trên phim X-quang, sẽ sinh thiết tổn thương dưới hướng dẫn của X-quang. Trường hợp thấy được ở cả hai là X-quang và siêu âm, thì sẽ được làm dưới hướng dẫn của siêu âm, do phương tiện này linh hoạt và dễ làm hơn, an toàn hơn.
Sinh thiết kim lớn sử dụng kim to, do vậy vấn đề chảy máu cần phải được lưu ý, bệnh nhân phải được xét nghiệm công thức máu, đông máu cơ bản trước khi làm, đồng thời bệnh nhân được sử dụng loại thuốc tê đặc biệt để cầm máu và sẽ được ép nhu mô vú sau can thiệp.
Đây là phương pháp hiện đại nhưng khó cần được thực hiện bởi đội ngũ bác sĩ, kỹ thuật viên được đào tạo bài bản và cẩn thận. Bệnh nhân cần được giải thích cẩn thận về mục đích, thời gian làm và các biến chứng có thể xảy ra.
2.4 Hút chân không loại bỏ hoàn toàn tổn thương lành tính dưới hướng dẫn siêu âm
Với nguyên lý tương tự như phương pháp sinh thiết kim lớn có hút chân không, phương pháp này sử dụng kim kích thước lớn dưới lực hút chân không để loại bỏ hoàn toàn tổn thương lành tính. Đây là phương pháp được chỉ định trong những trường hợp u xơ lành tính kích thước lớn, tăng kích thước, các ổ cặn viêm, lao, u nhú, u diệp thể lành tính... Chỉ bằng đường rạch da rất nhỏ (3-5mm), bác sĩ sẽ đưa kim vào tổn thương, cắt nhỏ tổn thương và đưa ra. Đây là phương pháp xâm phạm nhu mô vú lành tối thiểu, gần như không để lại sẹo, ngay cả những trường hợp khối u to từ 5-6 cm, ít mất máu và bệnh nhân chỉ cần gây tê tại chỗ, không cần nhập viện. Với ưu điểm như vậy, phương pháp này được sử dụng nhiều gần đây để thay thế cho phương pháp mổ mở. Tuy nhiên, bệnh nhân cần được giải thích cẩn thận và tránh những biến chứng có thể xảy ra. Đồng thời tránh sử dụng cho những trường hợp không cần thiết để tránh lạm dụng kỹ thuật không cần thiết như những trường hợp tổn thương < 1cm, tổn thương dạng nang lành tính ...
2.5 Định vị kim dây dưới hướng dẫn của siêu âm và X-quang
Trong những trường hợp cần định vị để mổ mở lấy bệnh phẩm chẩn đoán hoặc cắt bỏ hoàn toàn tổn thương mà bác sĩ mổ không sờ thấy hoặc không nhìn thấy được trong quá trình mổ, bác sĩ can thiệp hình ảnh sẽ định vị tổn thương bằng cách đưa một kim dây vào tổn thương. Bác sĩ mổ sẽ lần theo kim dây để lấy tổn thương dựa vào bản đồ định vị được xác định từ trước. Những tổn thương này thường nhỏ và khó áp dụng được phương pháp sinh thiết kim lõi hoặc ở những cơ sở chưa thực hiện được kỹ thuật hút chân không hoặc tùy theo từng điều kiện cụ thể của người bệnh. Cần phải lưu ý một số biến chứng còn sót kim dây không lấy hết khi mổ cho người bệnh.
Quý khách hàng có nhu cầu thăm khám, nhận tư vấn và điều trị bệnh lý tuyến vú tại Vinmec có thể trực tiếp đến Trung tâm sàng lọc vú - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City, hoặc đặt hẹn qua số hotline của Trung tâm: 0910.704.068.