Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Hội chứng ruột ngắn (SBS) là một tình trạng suy giảm khả năng hấp thu có liên quan đến tần suất biến chứng cao và sử dụng nhiều nguồn lực chăm sóc sức khỏe.
1. Giới thiệu về hội chứng ruột ngắn
Hội chứng ruột ngắn thường không trở nên rõ ràng về mặt lâm sàng cho đến khi khoảng 3/4 ruột non (SB) được cắt bỏ. Do chiều dài SB rộng và khả năng bù trừ cho việc cắt bỏ ruột, định nghĩa của hội chứng ruột ngắn không nên chỉ dựa trên chiều dài của ruột còn lại. Thay vào đó, các chuyên gia về suy ruột đã đề xuất định nghĩa hội chứng ruột ngắn là một tình trạng do phẫu thuật cắt bỏ, khiếm khuyết bẩm sinh hoặc mất hấp thu liên quan đến bệnh tật, đặc trưng bởi không có khả năng duy trì cân bằng protein-năng lượng, chất lỏng, chất điện giải hoặc vi chất dinh dưỡng khi chế độ ăn uống bình thường. Tuy nhiên, sự hiện diện của ruột non còn lại <200 cm thường được sử dụng để tạo điều kiện chẩn đoán trong lâm sàng.
2. Nhu cầu chất xơ đối với bệnh nhân có hội chứng ruột ngắn
Những bệnh nhân bị mở hỗng tràng ra da hoặc mở hồi tràng ra da thường được khuyên nên bổ sung các chất tạo khối vào chế độ ăn uống của họ nhằm nỗ lực làm đặc phân hoặc đầu ra của hậu môn. Mặc dù dường như nó có thể cải thiện độ đặc của phân, nhưng chất xơ cũng có thể làm mất chất lỏng thực tế từ ruột, vì nó không chỉ kéo chất lỏng từ niêm mạc mà nó còn 'hút' chất lỏng trong lòng, khiến nó không có sẵn để hấp thụ. Thay vì làm đặc chất lỏng trong phân trước khi nó bị mất đi vào thiết bị hỗ trợ khí quản của bệnh nhân, tốt hơn nên cố gắng tăng cường hấp thụ chất lỏng đó. Hơn nữa, chất xơ có thể làm giảm sự hấp thu chất dinh dưỡng và ở những người đang gặp khó tiêu thụ đủ calo, việc bổ sung các chất tạo phồng có thể làm trầm trọng thêm vấn đề do dẫn đến cảm giác no sớm.
Mặc dù vậy, một thử nghiệm về chất xơ hòa tan đôi khi có thể hữu ích trong nỗ lực làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày và thời gian vận chuyển tổng thể ở bệnh nhân hội chứng ruột ngắn có chuyển hóa nhanh qua dạ dày và ruột non. Các nguồn chất xơ hòa tan bao gồm bột yến mạch, ngũ cốc yến mạch, cám yến mạch, đậu lăng, táo, cam, lê, dâu tây, quả việt quất, quả hạch, các loại đậu, hạt lanh, hạt chia, cà rốt, psyllium, guar gum, pectin và vỏ (đặc biệt là cam quýt khô sự hăng hái). Nên bổ sung từ từ những chất này để đường tiêu hóa của bệnh nhân có thời gian thích nghi.
3. Vai trò của axit béo chuỗi ngắn
Bệnh nhân hội chứng ruột ngắn với một đoạn đại tràng còn lại có thể tạo ra thêm 500-1000 calo mỗi ngày từ việc hấp thụ và sử dụng các axit béo chuỗi ngắn được tạo ra bởi quá trình lên men vi khuẩn của chất xơ và carbohydrate kém hấp thu. Do đó, việc sử dụng một chế độ ăn có chất béo vừa phải, có hàm lượng carbohydrate phức hợp cao hơn có chứa chất xơ được khuyến khích cho bệnh nhân hội chứng ruột ngắn có ruột kết còn nguyên vẹn. Vì nó dễ lên men hơn nên chất xơ hòa tan được ưu tiên hơn chất xơ không hòa tan.
4. Oxalat
Oxalate là một hợp chất hóa học được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm. Sau khi uống, oxalat thường liên kết với canxi trong ruột và được thải ra ngoài. Ở những bệnh nhân kém hấp thu chất béo, canxi ưu tiên liên kết với chất béo trong ruột non thay vì oxalat. Điều này khiến oxalat có thể tự do được hấp thụ, nhưng chỉ ở những bệnh nhân có một phần ruột kết còn lại, vì oxalat chỉ có thể được hấp thụ ở ruột già. Sau khi hấp thụ, oxalat được đưa đến thận để bài tiết. Duy trì đủ nước và lượng nước tiểu là chìa khóa để ngăn ngừa sỏi oxalat, và ở một số bệnh nhân, chế độ ăn kiêng tránh các thực phẩm có hàm lượng oxalat cao như củ cải đường, rau bina, đại hoàng, dâu tây, các loại hạt, sô cô la, trà, cám lúa mì, và tất cả đồ tươi, đóng hộp hoặc đậu khô nấu chín (không bao gồm đậu Lima và đậu xanh) được khuyến khích.
5. Hàm lượng muối cần thiết ở bệnh nhân có hội chứng ruột ngắn
Bệnh nhân bị hội chứng ruột ngắn có nguy cơ cạn kiệt natri đáng kể. Lượng natri trong phân bình thường là khoảng 4,8 mEq (110 mg) mỗi ngày. Ở những bệnh nhân hội chứng ruột ngắn được phẫu thuật cắt hỗng tràng hoặc cắt hồi tràng, tổn thất hàng ngày có thể lên tới 105 mEq (2430 mg) mỗi lít phân. Khi kéo dài, tình trạng cạn kiệt natri và chất lỏng có thể liên quan đến giảm cân, không phát triển mạnh và suy giảm chức năng thận.
Các dấu hiệu và triệu chứng của sự suy giảm natri bao gồm lượng nước tiểu thấp, khát nước và mệt mỏi. Điều làm cho tình trạng suy giảm natri khó được đánh giá ở những bệnh nhân này là nồng độ creatinin có thể không phản ánh chính xác chức năng thận do khối lượng cơ thể gầy của nhiều bệnh nhân này biểu hiện thấp. Hơn nữa, nồng độ natri huyết thanh thường được duy trì trong giới hạn bình thường bằng cách bảo tồn natri qua trung gian renin và aldosterone ở thận, cũng như sự co lại của ngăn chứa dịch ngoại bào, gây hiểu lầm cho bác sĩ lâm sàng. Ở những bệnh nhân mệt mỏi, suy toàn bộ phát triển mạnh và lượng phân cao, nên đánh giá tình trạng natri.
Ở bệnh nhân hội chứng ruột ngắn , đồ ăn nhẹ có vị mặn được khuyến khích và việc sử dụng bình lắc muối tự do có thể giúp thay thế lượng natri bị mất trong phân. Viên nén muối đã được sử dụng, nhưng có thể gây nôn ở một số trẻ; Đối với những người được hỗ trợ dinh dưỡng qua đường ruột, muối có thể được thêm vào công thức. Tất nhiên, đảm bảo rằng bệnh nhân hội chứng ruột ngắn không hạn chế muối do các bệnh lý đi kèm mà họ mắc phải trước khi phát triển hội chứng ruột ngắn .
>>Xem thêm: Liệu pháp dinh dưỡng cho hội chứng ruột ngắn ở bệnh nhân trưởng thành- Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
Carol rees parrish, short bowel syndrome in adults – nutrition therapy for short bowel syndrome in the adult patient, nutrition issues in gastroenterology, series #134, Practicalgastro. october 2014 • volume XXXVIII, issue 10