Bài viết của Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Mối quan hệ gia đình giữa một người và một người thân bị ảnh hưởng với ung thư đại trực tràng càng gần thì nguy cơ đối với người đó càng cao. Điều này được minh họa trong các phân tích và nghiên cứu lâm sàng.
1. Mức độ quan hệ gia đình
Mối quan hệ gia đình giữa một người và một người thân bị ảnh hưởng với ung thư đại trực tràng càng gần thì nguy cơ đối với người đó càng cao. Điều này được minh họa trong một phân tích của Nghiên cứu song sinh Bắc Âu về ung thư, cho thấy rằng các cặp song sinh đơn hợp tử của những cặp song sinh bị ảnh hưởng có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng tăng gấp 3 lần so với dân số chung, trong khi các cặp song sinh lưỡng tính có nguy cơ tăng gấp 2 lần.
Khi đánh giá các tình huống tiền sử gia đình ung thư đại trực tràng khác nhau, tình huống phổ biến nhất là 1 người thân cấp một với ung thư đại trực tràng (> 90%). Bằng chứng gần đây cho thấy nguy cơ ung thư đại trực tràng ở một cá nhân có người thân cấp một bị ảnh hưởng không phụ thuộc vào danh tính của người thân. Trong một nghiên cứu nội soi đại tràng lớn liên quan đến 16 khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nguy cơ ung thư đại trực tràng (OR [AOR] đã điều chỉnh] 0,90, KTC 95% 0,34–2,35,P = 0,830), ung thư đại trực tràng tiến triển (AOR 1,07, KTC 95% 0,75–1,52, P = 0,714) và u tuyến đại trực tràng (AOR 0,96, KTC 95% 0,78–1,19, P = 0,718) ở các đối tượng có cha hoặc mẹ bị ảnh hưởng là tương tự của đối tượng có anh chị em ruột bị ảnh hưởng.
Nghiên cứu dựa trên dân số ở Utah cho thấy rằng tất cả những người thân của một người có chỉ số ung thư đại trực tràng đều có nguy cơ gia tăng, bao gồm người thân cấp một, người thân cấp độ hai và anh em họ đầu tiên. Tuy nhiên, mức độ rủi ro liên quan đến người thân cấp độ hai bị ảnh hưởng nói chung là khiêm tốn hơn so với quan sát được đối với người thân cấp một.
Trong một phân tích của Taylor và cộng sự, RR liên quan đến người thân cấp độ hai đơn lẻ (không có người thân cấp một đồng thời) dao động từ 1,05 (95% CI 0,99–1,11) đến 1,48 (1,11–1,93) với số lượng người thân cấp độ hai bị ảnh hưởng ngày càng tăng, trong khi RR liên quan đến 1 người thân cấp một đồng thời và tại ít nhất 1 người thân cấp độ hai dao động từ 2,12 (KTC 95% 1,90–2,35) đến 3,37 (KTC 95% 2,20–4,93).
2. Số lượng người thân cấp một bị ảnh hưởng
Các tài liệu liên tục cho thấy rằng số lượng người thân bị ảnh hưởng với ung thư đại trực tràng càng cao thì rủi ro tương đối và tuyệt đối đối với một cá nhân để phát triển ung thư đại trực tràng càng lớn. Phân tích hiệu quả chi phí của Naber và cộng sự đã sử dụng mô hình Phân tích sàng lọc vi mô (MISCAN) để ước tính chi phí và tác động của các chiến lược sàng lọc nội soi với các độ tuổi và khoảng thời gian khác nhau dựa trên đầu vào ước tính rủi ro ung thư đại trực tràng suốt đời thu được từ các nghiên cứu của Taylor và cộng sự và Fuchs và cộng sự.
Điều quan trọng cần lưu ý là nghiên cứu không tính đến tuổi của người thân bị ảnh hưởng với ung thư đại trực tràng và số lượng cao người thân cấp một hoặc người thân cấp một và người thân cấp độ hai (≥2) với ung thư đại trực tràng hoặc ung thư liên quan đến hội chứng Lynch nên gây ra nghi ngờ và nghiên cứu cho một hội chứng ung thư đại trực tràng di truyền tiềm ẩn.
Tuy nhiên, các phát hiện cho thấy số lượng người thân cấp một ngày càng tăng có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng suốt đời ở tất cả các nhóm tuổi. Trong phân tích thứ cấp của thử nghiệm PLCO của Schoen và cộng sự, những đối tượng có ≥2 người thân cấp một có nhịp tim điều chỉnh cao hơn đáng kể đối với tần suất ung thư đại trực tràng so với những người có 1 người thân cấp một (2,04; KTC 95% 1,44–2,86 so với 1,23; KTC 95% 1,07–1,42).
3. Tiền sử gia đình có polyp
Nhiều hạn chế được quan sát thấy trong các nghiên cứu đánh giá nguy cơ ung thư đại trực tràng gia đình áp dụng cho những nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của tiền sử gia đình về u tuyến. Trên thực tế, hầu hết các nghiên cứu đều đánh giá nguy cơ u tuyến ở những người có người thân cấp một với ung thư đại trực tràng, hơn là nguy cơ ung thư đại trực tràng ở những người có người thân cấp một với u tuyến.
Trong một nghiên cứu tiền cứu từ Hồng Kông, Ng và cộng sự báo cáo rằng tỷ lệ phổ biến của u tuyến tiên tiến là 11,5% trong số anh chị em của bệnh nhân có u tuyến tiên tiến, so với 2,5% ở anh chị em của những người không có u tuyến tiên tiến (OR 6,05; KTC 95% 2,74–13,36). Ngoài ra, tỷ lệ lưu hành của tất cả các u tuyến đại trực tràng cao hơn đáng kể (39,0% so với 19,0%; OR 3,29; KTC 95% 2,16–5,03). Một nghiên cứu gần đây từ cùng một nhóm các nhà điều tra cho thấy tiền sử gia đình có u tuyến không phát triển ít liên quan hơn so với các u tuyến tiên tiến: tỷ lệ phổ biến của u tuyến tiên tiến là 3,9% trong số người thân cấp một của những cá nhân có u tuyến không phát triển, so với 2,4% ở người thân cấp một của các cá nhân với nội soi bình thường (OR 1,67; KTC 95% 0,72-3,91).
Một nghiên cứu tiềm năng đa quốc gia đa trung tâm trong số gần 12.000 đối tượng không có triệu chứng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cho thấy những đối tượng có ít nhất 1 người thân cấp một bị ảnh hưởng bởi ung thư đại trực tràng có nhiều khả năng mắc ung thư đại trực tràng (AOR khoảng 2,02–7,89), ung thư đại trực tràng nâng cao (AOR khoảng 1,55–2,06) và u tuyến đại trực tràng (AOR khoảng 1,31–1,92) so với những người không có tiền sử gia đình.
Mặc dù các u tuyến thông thường trước đây là tổn thương tiền thân ung thư đại trực tràng liên quan chính, nhưng tích lũy bằng chứng cho thấy đường răng cưa là yếu tố góp phần chính gây ra ung thư đại trực tràng. Mặc dù có rất ít dữ liệu liên quan đến nguy cơ gia đình liên quan đến polyp răng cưa (ngoài hội chứng polyposis răng cưa), nhưng hợp lý nên bao gồm các polyp có răng cưa nâng cao (SSL ≥10 mm, SSL có loạn sản và u tuyến có răng cưa truyền thống) trong danh mục rộng hơn là “ polyp nâng cao, ”cũng bao gồm các u tuyến tiên tiến, cho đến khi có thêm dữ liệu.
4. Các lựa chọn thay thế cho nội soi đại tràng ở những bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư đại trực tràng
Không có nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng nào so sánh năng suất và hiệu quả của nội soi đại tràng so với các phương thức sàng lọc ung thư đại trực tràng khác dành riêng cho những cá nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư đại trực tràng, ngoại trừ xét nghiệm máu ẩn trong phân. Trong 1 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, các nhà điều tra đã chọn ngẫu nhiên gần 1.900 bệnh nhân người thân cấp một của bệnh nhân ung thư đại trực tràng để khám nội soi một lần hoặc 3 lần xét nghiệm máu ẩn trong phân hàng năm liên tiếp. Ung thư tiến triển được phát hiện lần lượt ở 4,2% và 5,6% người thân cấp một trong nhóm xét nghiệm máu ẩn trong phân và nội soi đại tràng (OR 1,41; KTC 95% 0,88–2,26) và không có ung thư đại trực tràng nào bị bỏ sót vớichiến lược xét nghiệm máu ẩn trong phân.
Một phân tích tổng hợp gần đây đã đánh giá các đặc điểm hoạt động của xét nghiệm máu ẩn trong phân ở những bệnh nhân có nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng do tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc ung thư đại trực tràng. Phân tích phân nhóm bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư đại trực tràng cho thấy độ nhạy xét nghiệm máu ẩn trong phân là 86% (KTC 95% 31% –99%) và độ đặc hiệu là 91% (KTC 95% 89% –93%) đối với ung thư đại trực tràng ; đối với ung thư tiến triển, độ nhạy là 46% (KTC 95% 37% –56%) và độ đặc hiệu là 93% (KTC 95% 90% –95%).
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
Shaukat, Aasma MD và cộng sự. Hướng dẫn lâm sàng của ACG: Tầm soát Ung thư Đại trực tràng 2021. Tạp chí Tiêu hóa học Hoa Kỳ: Tháng 3 năm 2021 - Tập 116 - Số 3 - trang 458-479