Máu tụ dưới màng cứng: Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Bùi Ngọc Phương Hòa - Bác sĩ Nội đa khoa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng.

Máu tụ dưới màng cứng là khối máu đông hình thành trong khoang dưới màng cứng. Đây là khoảng giữa hai lớp màng não, là màng bao quanh và bảo vệ não. Có các trường hợp khối máu tụ dưới màng cứng có khả năng cần cấp cứu khẩn cấp, tiến triển nhanh chóng hoặc cũng có thể diễn ra chậm, từ từ trong một khoảng thời gian dài.

1. Máu tụ dưới màng cứng là gì?

Não và tủy sống của con người được bao bọc bên ngoài bởi những lớp màng bảo vệ gọi là màng não. Khi mắc bệnh máu tụ dưới màng cứng (hay còn gọi là xuất huyết dưới màng cứng), máu hoặc các sản phẩm của máu sẽ bị tích tụ giữa hai lớp màng nhện và màng cứng ở não.

Dựa vào thời gian xuất hiện triệu chứng mà người ta phân thành:

  • Máu tụ dưới màng cứng cấp tính: Khi máu tụ hình thành nhanh chóng sau khi bị chấn thương ở đầu, các triệu chứng có thể xuất hiện ngay lập tức hoặc trong vòng vài giờ.
  • Máu tụ dưới màng cứng bán cấp: Khi các triệu chứng xuất hiện từ 3-7 ngày sau khi bị chấn thương đầu.

Máu tụ dưới màng cứng mãn tính: Khi máu tụ từ từ sau một chấn thương đầu, các triệu chứng có thể xảy ra 2-3 tuần sau khi chấn thương ban đầu.

2. Những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh

Triệu chứng của bệnh máu tụ dưới màng cứng phụ thuộc vào độ nặng của chấn thương và kích cỡ, cũng như vị trí của khối máu tụ. Các triệu chứng có thể bắt đầu ngay lập tức hoặc sau một vài tuần kể từ khi chấn thương đầu. Một vài người có vẻ ổn lúc đầu (vẫn tỉnh táo) sau khi gặp chấn thương. Tuy nhiên, sau đó áp lực trong não gây ra do khối tụ máu có thể bắt đầu dẫn đến các triệu chứng như:

  • Mất ý thức hoặc thay đổi mức độ tỉnh táo
  • Nôn
  • Đau đầu
  • Chóng mặt
  • Mất khả năng định hướng
  • Nói ngọng
  • Mất trí nhớ
  • Co giật
  • Thay đổi tính cách
  • Thở bất thường
  • Gặp vấn đề khi đi lại
  • Yếu một bên chi

Máu tụ dưới màng cứng là khối máu đông hình thành trong khoang dưới màng cứng
Máu tụ dưới màng cứng là khối máu đông hình thành trong khoang dưới màng cứng

Máu tụ dưới màng cứng cấp tính và mãn tính thường gây đau đầu, yếu cơ nhẹ, suy nghĩ chậm, phát âm bất thường, gặp vấn đề khi di chuyển và bị lú lẫn. Nếu bệnh xảy ra ở trẻ sơ sinh, các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Thóp đầu bị phồng
  • Khó ăn
  • Co giật cục bộ (chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó trên cơ thể)
  • Co cứng– co giật toàn bộ cơ thể
  • Tăng chu vi vòng đầu
  • Ngủ nhiều hoặc hôn mê
  • Khó chịu
  • Nôn mửa kéo dài

3. Nguyên nhân gây ra tụ máu dưới màng cứng

Nguyên nhân thường gặp của bệnh máu tụ dưới màng cứng là do chấn thương đầu nghiêm trọng làm rách tĩnh mạch ở khoang dưới màng cứng. Vết rách làm cho máu chảy vào khoang này tạo thành khối tụ máu chèn ép mô não. Tình trạng này thường gọi là máu tụ dưới màng cứng cấp tính.

Tụ máu dưới màng cứng cũng có thể xảy ra sau một chấn thương đầu rất nhỏ, đặc biệt là ở người cao tuổi, do ở người già tĩnh mạch thường bị giãn ra nên dễ bị tổn thương hơn. Tình trạng này có thể không được chú ý đến trong nhiều ngày đến vài tuần và được gọi là tụ máu dưới màng cứng mãn tính.

Những yếu tố làm tăng nguy cơ tụ máu dưới màng cứng:

  • Bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu (chất làm loãng máu, bao gồm aspirin)
  • Nghiện rượu lâu ngày
  • Mắc các bệnh lý làm khó đông máu
  • Bị chấn thương đầu lặp đi lặp lại
  • Độ tuổi: bệnh thường xảy ra nhiều hơn ở trẻ nhỏ và người già.

4. Chẩn đoán tụ máu dưới màng cứng

Người bệnh nhập viện sau khi bị chấn thương đầu thường được làm chẩn đoán hình ảnh đầu như chụp cắt lớp vi tính (CT) phát hiện máu tụ dưới màng cứng trên CT hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI). Những kiểm tra hình ảnh này có thể giúp bác sĩ phát hiện sự tồn tại của tụ máu dưới màng cứng. Chụp MRI hơi ưu thế hơn chụp CT trong khả năng phát hiện tụ máu dưới màng cứng nhưng chụp CT lại nhanh và thường sẵn có hơn.

Một số trường hợp hiếm xảy ra có thể dùng chụp mạch não đồ (DSA) để chẩn đoán tụ máu dưới màng cứng. Trong kỹ thuật này, sẽ có một ống thông được đưa vào động mạch ở bẹn và luồn lên động mạch cổ và não. Sau đó chất cản quang đặc biệt được tiêm vào để cho hình ảnh dòng máu chảy qua các động tĩnh mạch trên phim X-quang.


Chụp cắt lớp vi tính (CT) giúp bác sĩ phát hiện sự tồn tại của tụ máu dưới màng cứng
Chụp cắt lớp vi tính (CT) giúp bác sĩ phát hiện sự tồn tại của tụ máu dưới màng cứng

5. Điều trị máu tụ dưới màng cứng

Việc điều trị phụ thuộc vào kết quả khám lâm sàng, triệu chứng, kích thước, vị trí khối máu tụ và khối máu tụ là cấp tính hay mạn tính.

Người bệnh có thể phải phẫu thuật ngay lập tức để làm giảm bớt áp lực lên não. Bác sĩ có thể khoan một lỗ ở sọ để giúp lấy máu tụ và làm giảm bớt áp lực. Khối tụ máu quá lớn hoặc đã đông cứng lại có thể cần được loại bỏ qua thủ thuật mở hộp sọ.

Bác sĩ có thể cho bệnh nhân sử dụng thuốc lợi tiểu và corticoid để làm giảm sưng. Thuốc chống co giật như Phenytoin, cũng có thể được sử dụng để kiểm soát hay ngăn chặn cơn co giật.

Những người bị tụ máu dưới màng cứng mãn tính và ở trong tình trạng ổn định có thể chỉ cần theo dõi cho đến khi thực sự cần điều trị.

Việc hồi phục có thể chậm và lên đến 2 năm. Trẻ em nhìn chung phục hồi nhanh hơn người lớn.

Máu tụ dưới màng cứng là một bệnh nặng và cần điều trị cấp cứu. CT scan có thể cho thấy máu tụ dưới màng cứng. Bệnh nhân có thể cần phải được phẫu thuật để lấy máu tụ. Nhiều người bị máu tụ dưới màng cứng lượng ít có thể hồi phục nhanh chóng và hoàn toàn.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe