HPV gây ra những loại ung thư nào?

Bài viết tham vấn chuyên môn của Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Thị Minh Thuyên - Bác sĩ Giải phẫu bệnh - Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng.

Virus HPV là một trong những nguyên nhân dẫn đến các bệnh lý ung thư khác. Trong đó, ung thư cổ tử cung là loại bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản và có khả năng gây tử vong cao ở phụ nữ.

1. Virus HPV là gì?

HPV là viết tắt của vi-rút u nhú ở người (human papilloma virus), một nhóm lớn các vi rút có liên quan. Mỗi loại virus trong nhóm được đánh số gọi là tuýp HPV. Hầu hết các tuýp HPV gây ra mụn cóc ở da, như da cánh tay, ngực, bàn tay hoặc bàn chân. Các tuýp khác được tìm thấy chủ yếu trên màng nhầy của cơ thể. Màng nhầy là lớp bề mặt ẩm lót các cơ quan và bộ phận của cơ thể mở ra bên ngoài, như âm đạo, hậu môn, miệng và họng. Các tuýp HPV trên màng nhầy đôi khi được gọi là HPV sinh dục, chúng thường không tồn tại trên da.

Virus HPV phổ biến lây truyền qua đường tình dục và có 200 chủng virus HPV liên quan chặt chẽ với nhau.

Virus HPV lây truyền qua đường tình dục có hai loại khác nhau:

  • Các tuýp HPV nguy cơ thấp: Một số tuýp HPV có thể gây ra mụn cóc (u nhú) trên hoặc xung quanh bộ phận sinh dục và hậu môn ở cả nam và nữ. Phụ nữ cũng có thể bị mụn cóc ở cổ tử cung và trong âm đạo. Vì những týp HPV này hiếm khi gây ung thư, chúng được gọi là vi rút “nguy cơ thấp”.
  • Các tuýp HPV nguy cơ cao: Các tuýp HPV khác được gọi là “nguy cơ cao” vì chúng có thể gây ung thư cho cả nam và nữ. Các bác sĩ lo lắng nhiều hơn về những biến đổi tế bào và tiền ung thư liên quan đến những týp này, vì chúng có nhiều khả năng phát triển thành ung thư theo thời gian. Các tuýp HPV nguy cơ cao phổ biến là HPV 16 và 18.

Mặc dù hầu hết trường hợp nhiễm HPV đều có thể tự khỏi và các tổn thương tiền ung thư cũng có thể tự khỏi, nhưng vẫn có nguy cơ đối với phụ nữ nhiễm HPV gây tổn thương mãn tính và tiền ung thư sẽ xâm lấn và phát triển thành ung thư cổ tử cung. Ở phụ nữ có hệ miễn dịch bình thường thì mất khoảng 15-20 năm để ung thư cổ tử cung phát triển. Nhưng ở những phụ nữ có hệ miễn dịch kém chẳng hạn như những người nhiễm HIV thì chỉ mất 5-10 năm phát triển ung thư cổ tử cung.


Virus HPV là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung
Virus HPV là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung

2. Các ung thư liên quan đến nhiễm HPV

2.1. Ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến nhất liên quan đến HPV. Hầu hết tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung đều do HPV gây ra.

Ung thư cổ tử cung có thể được phát hiện sớm và thậm chí được ngăn ngừa bằng các xét nghiệm tầm soát định kỳ. Xét nghiệm Pap để tìm những biến đổi trong tế bào cổ tử cung do nhiễm HPV.

Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được bằng vắc xin và các xét nghiệm tầm soát thường xuyên.

2.2. Ung thư âm hộ

HPV cũng có thể gây ung thư âm hộ, là phần bên ngoài của cơ quan sinh dục nữ. Ung thư này ít gặp hơn so với ung thư cổ tử cung.

Không có xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn nào cho bệnh ung thư này ngoài khám sức khỏe định kỳ.

Trắc nghiệm về virus HPV

Hiện nay, những căn bệnh liên quan đến HPV ngày càng trở nên phổ biến và được cảnh báo nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông. Hiểu đúng về HPV sẽ giúp bạn tránh được không ít nguy cơ dẫn đến ung thư các bộ phận sinh dục.

Bài dịch từ: webmd.com

2.3. Ung thư âm đạo

Hầu hết các ung thư âm đạo đều chứa HPV. Nhiều trường hợp tiền ung thư âm đạo cũng chứa HPV và những biến đổi này có thể xuất hiện trong nhiều năm trước khi chuyển thành ung thư. Đôi khi có thể phát hiện những tổn thương tiền ung thư này với cùng một xét nghiệm Pap được sử dụng để kiểm tra ung thư và tiền ung thư cổ tử cung. Nếu tiền ung thư được phát hiện, nó có thể được điều trị, ngăn chặn ung thư trước khi nó thực sự khởi phát.

2.4. Ung thư dương vật

Ở nam giới, HPV có thể gây ung thư dương vật. Tình trạng này thường gặp hơn ở nam giới nhiễm HIV và những người có quan hệ tình dục đồng giới.Không có xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn nào để tìm ra các dấu hiệu sớm của ung thư dương vật. Bởi vì hầu hết tất cả các ung thư dương vật đều bắt đầu dưới bao quy đầu của dương vật, chúng có thể được nhận thấy sớm trong quá trình bệnh.

2.5. Ung thư hậu môn

HPV có thể gây ung thư hậu môn ở cả nam và nữ, thường gặp hơn ở những người nhiễm HIV và ở những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới.Các xét nghiệm tầm soát ung thư hậu môn không được khuyến cáo thường quy cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, một số chuyên gia khuyến nghị xét nghiệm tế bào học hậu môn (còn được gọi là xét nghiệm Pap qua đường hậu môn vì nó giống như xét nghiệm Pap được sử dụng cho ung thư cổ tử cung) cho những người có nguy cơ cao mắc ung thư hậu môn, bao gồm những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới, những người đã bị ung thư cổ tử cung hoặc ung thư âm hộ, bất kỳ ai dương tính với HIV và được cấy ghép nội tạng.

2.6. Ung thư miệng và họng

HPV được tìm thấy trong một số bệnh ung thư miệng - họng ở nam giới và phụ nữ. Hầu hết các ung thư được tìm thấy ở phía sau họng, bao gồm cả đáy lưỡi và amidan, đều liên quan đến HPV. Đây là những bệnh ung thư liên quan đến HPV phổ biến nhất ở nam giới.Không có xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn nào để phát hiện sớm những ung thư này. Tuy nhiên, nhiều trường hợp có thể được phát hiện sớm trong các lần kiểm tra định kỳ bởi nha sĩ, bác sĩ, chuyên gia vệ sinh răng miệng hoặc bằng cách tự kiểm tra.


HPV được tìm thấy trong một số bệnh ung thư miệng - họng ở nam giới và phụ nữ.
HPV được tìm thấy trong một số bệnh ung thư miệng - họng ở nam giới và phụ nữ.

3. Có thể ngăn ngừa nhiễm HPV không?

Không có cách nào chắc chắn để ngăn ngừa nhiễm tất cả các tuýp HPV khác nhau. Nhưng có những điều bạn có thể làm để giảm nguy cơ bị nhiễm bệnh. Ngoài ra còn có các loại vắc-xin có thể bảo vệ những người trẻ tuổi khỏi các tuýp HPV có liên quan đến ung thư và mụn cóc sinh dục.

HPV được truyền từ người này sang người khác khi tiếp xúc với bộ phận cơ thể bị nhiễm. Mặc dù HPV có thể lây lan khi quan hệ tình dục - bao gồm quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và miệng – nhưng quan hệ tình dục không phải là cách duy nhất để lây nhiễm, mà là tiếp xúc da kề da với một vùng cơ thể bị nhiễm HPV. Có thể có những cách khác lây nhiễm HPV mà chưa rõ ràng.

HPV có thể tồn tại trong nhiều năm mà không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Nó không phải lúc nào cũng gây ra mụn cóc hoặc bất kỳ triệu chứng nào khác. Ai đó có thể có vi-rút và lây truyền nó mà không biết.

3.1. Sử dụng bao cao su

Bao cao su có thể bảo vệ chống lại HPV, nhưng chúng không ngăn ngừa hoàn toàn sự lây nhiễm.

Bao cao su phải được sử dụng đúng cách mỗi khi quan hệ tình dục. Ngay cả vậy, bao cao su cũng không thể bảo vệ hoàn toàn vì chúng không che được mọi khu vực có thể bị nhiễm HPV, như da ở bộ phận sinh dục hoặc vùng hậu môn. Tuy nhiên, bao cao su vẫn hữu ích trong việc bảo vệ chống lại HPV và cũng giúp bảo vệ chống lại một số bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác.

Nên sử dụng bao cao su mới cho mỗi lần quan hệ tình dục. Nên đeo bao cao su TRƯỚC khi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, miệng hoặc hậu môn và giữ cho đến khi quan hệ tình dục xong.

3.2. Hạn chế bạn tình

Nếu bạn đang hoạt động tình dục, hạn chế số lượng bạn tình và tránh quan hệ tình dục với những người đã có nhiều bạn tình khác có thể giúp giảm nguy cơ phơi nhiễm với HPV sinh dục.

3.3. Tiêm vắc-xin HPV

Vắc-xin HPV có thể ngăn ngừa nhiễm một số týp HPV, bao gồm các týp có liên quan đến ung thư, cũng như các loại liên quan đến mụn cóc hậu môn và sinh dục.

Vắc xin được chấp thuận sử dụng cho nam và nữ. Chúng chỉ có thể ngăn ngừa nhiễm HPV - nhưng không giúp điều trị nhiễm HPV hiện có.

  • Để có hiệu quả tốt nhất, nên tiêm vắc-xin HPV từ 9 đến 12 tuổi.
  • Từ 13 đến 26 tuổi chưa được chủng ngừa hoặc chưa được chủng ngừa tất cả các mũi nên chủng ngừa càng sớm càng tốt. Tiêm phòng cho người trẻ tuổi sẽ không ngăn ngừa được nhiều bệnh ung thư như việc tiêm phòng cho trẻ em và thanh thiếu niên.
  • Hiệp hội Ung thư Mỹ không khuyến cáo tiêm phòng HPV cho người trên 26 tuổi.

4. Điều trị HPV hoặc các bệnh liên quan đến HPV

Ung thư dễ điều trị nhất khi nó được phát hiện sớm - khi nó còn nhỏ và trước khi nó di căn. Một số xét nghiệm tầm soát ung thư có thể tìm thấy những biến đổi tế bào sớm do HPV gây ra và những biến đổi này có thể được điều trị trước khi chúng trở thành ung thư.

Đói với ung thư cổ tử cung, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra khuyến nghị tiếp cận toàn diện để phòng ngừa và kiểm soát, bao gồm các can thiệp trong suốt cuộc đời. Nó phải được kết hợp đa ngành bao gồm từ giáo dục cộng đồng, vận động xã hội, tiêm chủng, sàng lọc, điều trị và chăm sóc.

Ban đầu của phòng ngừa bệnh ung thư cổ tử cung là tiêm vắc-xin cho các bé gái từ 9-14 tuổi.

Ngoài ra còn có biện pháp dự phòng khác cho bé trai và bé gái như là:

  • Giáo dục về thực hành tình dục an toàn bao gồm những hoạt động bắt đầu quan hệ.
  • Khuyến khích và cung cấp bao cao su cho những người tham gia hoạt động tình dục
  • Cảnh báo về việc sử dụng thuốc lá (thường bắt đầu trong thời niên thiếu) là một yếu tố nguy có quan trọng đối với ung thư cổ tử cung và các bệnh ung thư khác.

Với phụ nữ có hoạt động tình dục nên được kiểm các các tế bào cổ tử cung bất thường và các tổn thương tiền ung thư bắt đầu từ 30 tuổi.

Nếu cần điều trị tiền ung thư để cắt bỏ các tế bào hoặc tổn thương bất thường, nên áp dụng liệu pháp đông lạnh (phá huỷ các mô bất thường trên cổ tử cung bằng cách đóng băng).

Nếu có dấu hiệu ung thư cổ tử cung thì các lựa chọn điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị và hoá trị.


Tiêm phòng vắc-xin HPV giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung
Tiêm phòng vắc-xin HPV giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung

5. Những điều cần nhớ về HPV

Virus HPV chủ yếu lây truyền qua đường tình dục do da tiếp xúc trực tiếp với da, niêm mạc miệng, hầu họng hoặc tiếp xúc với dương vật, tử cung, âm đạo, hậu môn của người bị nhiễm bệnh. Dưới đây là những điều cần lưu ý về HPV:

  • HPV là một loại vi rút rất phổ biến. Hầu hết đàn ông và phụ nữ đã từng có quan hệ tình dục sẽ bị nhiễm HPV vào một thời điểm nào đó trong đời.
  • Không có phương pháp điều trị nào đối với HPV, nhưng trong hầu hết các trường hợp, nó sẽ biến mất mà không cần điều trị.
  • Nhiễm HPV không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư. Qua thời gian, hầu hết HPV tự biến mất.
  • Một số người có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe liên quan đến HPV cao hơn. Điều này bao gồm cả nam giới đồng tính nam và lưỡng tính và những người có hệ thống miễn dịch kém (bao gồm cả những người nhiễm HIV / AIDS).
  • Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV dẫn đến ung thư đều có thể được ngăn ngừa bằng vắc xin.
  • Hầu hết các ung thư cổ tử cung có thể được ngăn ngừa bằng cách tầm soát thường xuyên.

Tóm lại, nhiễm HPV rất phổ biến. Ở hầu hết mọi người, cơ thể tự loại bỏ nhiễm trùng, nhưng đôi khi nó không biến mất dẫ đến nhiễm trùng mãn tính hoặc kéo dài, đặc biệt do một số týp HPV nguy cơ cao gây ra, có thể gây ung thư theo thời gian. Vì vậy, tiêm vắc xin ung thư cổ tử cung là biện pháp phòng tránh hiệu quả nhất các bệnh do vi rút HPV gây ra. Việc phòng ngừa bệnh có ý nghĩa to lớn trong việc ngăn chặn việc các tế bào bất thường hoặc tiền ung thư tiến triển thành ung thư cổ tử cung.

Hiện nay Hệ thống Y tế Vinmec là địa chỉ tiêm vắc xin ung thư cổ tử cung uy tín, đáng tin cậy. Hiện có 2 loại vắc xin đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và được cấp phép lưu hành tại Việt Nam cũng như tại Vinmec là: GardasilCervarix.

Hai loại vắc-xin này đều được tiêm 3 mũi trong vòng 6 tháng đối với mỗi bệnh nhân. Trong thời gian chưa tiêm đủ các mũi, bạn không nên quan hệ tình dục để ngăn ngừa lây nhiễm HPV khi cơ thể chưa tạo được miễn dịch hoàn chỉnh. Ngoài ra, những phụ nữ có kế hoạch mang thai nên có con sau khi tiêm mũi cuối cùng ít nhất một tháng để tránh những ảnh hưởng của vắc-xin tới thai nhi.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Nguồn tham khảo: webmd.com, who.int, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe