Bài viết được viết bởi Bác sĩ Vũ Duy Dũng - Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.
Dịch tễ học thông báo tỷ lệ mới mắc của đột quỵ thiếu máu não cục bộ ở người trẻ (18 – 50 tuổi) đã tăng lên đáng kể. Những bệnh nhân trẻ này thường có mong muốn có thể sống lâu sau đột quỵ. Chi phí chăm sóc sức khỏe thời gian dài rất tốn kém, điều này đặt ra thách thức lớn cho các hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Phần 1: Giới thiệu chung
Mặc dù hiện nay các khuyến cáo về điều trị đột quỵ ở các bệnh nhân trẻ và già (>50 tuổi) là tương tự nhau nhưng vấn đề quản lý tối ưu cho các bệnh nhân trẻ mắc đột quỵ còn chưa được biết rộng rãi. Người trẻ thường không được tuyển chọn tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng và các phân tích dưới nhóm.
Cụ thể, bệnh nhân trẻ đột quỵ thường không được tuyển chọn do tỷ lệ mới mắc đột quỵ là thấp và tỷ lệ lưu hành của các yếu tố nguy cơ mạch máu ở người trẻ cũng thấp. Tuy nhiên, đã có nhiều tiến bộ trong khả năng xác định yếu tố nguy cơ đáng kể gây biến cố đột quỵ ở bệnh nhân, ví dụ như những người còn lỗ bầu dục. Các nghiên cứu dự phòng trong tương lai có thể giúp làm giảm tỷ lệ mới mắc đột quỵ và hậu quả của nó ở người trẻ. Các hướng dẫn cụ thể và chi tiết ngày càng phát triển giúp quản lý đột quỵ ở người trẻ sẽ là một bước quan trọng để giúp giảm tỷ lệ đột quỵ.
1. Giới thiệu
Tính trên toàn thế giới, hơn hai triệu người trẻ bị đột quỵ thiếu máu não cục bộ hàng năm. Đột quỵ ở người trẻ có tác động kinh tế xã hội to lớn vì chi phí chăm sóc sức khỏe cao và mất năng suất lao động. Trái ngược với tỷ lệ mới mắc đột quỵ ở người già đang giảm đi, các nghiên cứu dịch tễ học đã báo cáo nhất quán về tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ bệnh nhân người trẻ bị đột quỵ ngày càng tăng lên trong tổng số các ca đột quỵ trong cộng đồng (một trong mười ca bệnh đột quỵ là người trẻ). Tỷ lệ mới mắc này nhấn mạnh nhu cầu nhanh chóng xác định được các yếu tố nguy cơ mới và làm sáng tỏ các phương thức tác động của các yếu tố nguy cơ mạch máu truyền thống như: Tăng huyết áp, hút thuốc lá và béo phì để tìm ra biện pháp giải quyết tốt để đảo ngược chiều hướng này.
Việc nghiên cứu về nguyên nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ ở độ tuổi trẻ thường gặp nhiều khó khăn. Trái với đột quỵ ở người già, đột quỵ ở tuổi trẻ có nhiều nguyên nhân và yếu tố nguy cơ khác nhau, thường hiếm gặp, bao gồm sử dụng chất cấm, có thai, lóc tách động mạch và lỗ bầu dục (PFO), mà cần thêm các nghiên cứu và điều trị cụ thể. Ngoài ra, tiên lượng sau đột quỵ khác nhau giữa các bệnh nhân với một kỳ vọng sống tiếp theo khoảng vài thập kỷ, so với các bệnh nhân già. Các khuyến cáo về tiếp cận và quản lý lâm sàng đột quỵ ở người trẻ khan hiếm trong các hướng dẫn đã xuất bản bởi Hiệp hội Tim và Đột quỵ Hoa Kỳ và Hiệp hội Bác sĩ Hoàng gia.
Mặc dù, chưa có sự xác định chính thức về các bệnh nhân người trẻ, hầu hết các nghiên cứu đều nhận định độ tuổi của nhóm người này trong khoảng giữa 18 và 50 tuổi. Tuy nhiên, các nghiên cứu không phân tách độ tuổi một cách chi tiết, thường giới hạn dưới khác nhau giữa 15 và 18 tuổi, và giới hạn trên từ 45 đến 65 tuổi.
Trong bài tổng quan này, chúng tôi sẽ bao hàm bằng chứng về dịch tễ học và cung cấp những hiểu biết về các yếu tố nguy cơ truyền thống cùng tỷ lệ lưu hành tăng lên ở người trẻ đột quỵ. Chúng tôi cũng bàn luận về chẩn đoán và quản lý các nguyên nhân cụ thể của đột quỵ ở người trẻ theo tiêu chuẩn TOAST, tiên lượng lâu dài, và các quan điểm trong tương lai về chẩn đoán và quản lý đột quỵ ở người.
2. Dịch tễ học
Tỷ lệ mới mắc của đột quỵ thiếu máu não cục bộ ở người trẻ dao động đáng kể giữa các quốc gia, từ 7 – 8 trên 100.000 người/năm ở Châu Âu đến hơn 100 trên 100.00 người/năm ở Châu Phi hạ Sahara. Sự khác nhau này có thể do sự khác biệt về phương pháp nghiên cứu, sự đa dạng về định nghĩa đột quỵ ở người trẻ, về tuổi và dưới typ đột quỵ, và sự khác biệt địa lý về khí hậu, ô nhiễm không khí, di truyền, chủng tộc, các bệnh lý đi kèm, dữ liệu nguy cơ tim mạch và tình trạng kinh tế xã hội.
Tính trên toàn thế giới, tỷ lệ mới mắc đột quỵ ở người trẻ tăng lên tới 40% qua các thập kỷ vừa qua. Các lý do để giải thích cho tỷ lệ mới mắc tăng lên này có thể bao gồm phát hiện đột quỵ tốt hơn bởi các kỹ thuật hình ảnh thần kinh tiên tiến, đặc biệt là MRI xung khuếch tán, tỷ lệ hiện mắc tăng lên của các yếu tố nguy cơ truyền thống có thể thay đổi được, và vấn đề sử dụng chất cấm và chất tiêu khiển ngày càng nhiều. Các yếu tố nguy cơ riêng cho giới nữ như có thai và thời kỳ ở cữ, sử dụng các thuốc tránh thai đường uống, và tỷ lệ mới mắc cao hơn của các bệnh tự miễn (ví dụ: hội chứng kháng phosphoslipid), có thể giải thích cho một tỷ lệ mới mắc cao hơn thấy ở nữ giới so với nam giới (đặc biệt là ở những người trẻ dưới 30 tuổi). Tuy nhiên, các nghiên cứu khác không thấy có sự khác biệt, có thể vì những bệnh nhân nhân có độ tuổi từ 50 đến 65 cũng được tuyển chọn tham gia vào nghiên cứu.
Các yếu tố nguy cơ chưa xác định khác có thể có, vì tỷ lệ đột quỵ vô căn là cao hơn ở người trẻ so với người già. Điều này vẫn không thay đổi trong thập kỷ vừa qua. Sự kêu gọi cộng tác toàn cầu đã được chú ý, với sáng kiến về Đánh giá kết quả tổng thể lâu dài sau đột quỵ ở người trẻ mới được khởi động gần đây (GOAL) và nghiên cứu SECRETO, sẽ giúp mô tả cụ thể đặc điểm các yếu tố nguy cơ chưa xác định được này và phân bố của chúng trên toàn cầu.
>>> Đột quỵ ở người trẻ: Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ - P1
>>> Đột quỵ ở người trẻ: Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ - P2
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Bài viết tham khảo nguồn:
Ekker MS, Boot EM, Singhal AB, Tan KS, Debette S, Tuladhar AM, de Leeuw FE. Epidemiology, aetiology, and management of ischaemic stroke in young adults. Lancet Neurol 2018; 17: 790-801.