Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ mắt - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng
Giác mạc hình chóp (hình nón) – Keratoconus là tình trạng giác mạc không có hình cầu mà lồi ra ngoài thành hình chóp. Tỷ lệ mắc giác mạc hình chóp là khoảng 1/2000, bệnh làm cho giác mạc phần phía dưới bị giãn phình ra và tiêu mỏng. Giác mạc hình chóp có thể khiến bệnh nhân suy giảm thị lực và nhạy cảm với ánh sáng. Giác mạc hình chóp thường ảnh hưởng đến cả hai mắt và thường bắt đầu xuất hiện từ độ tuổi 10 đến 25. Tình trạng bệnh có thể tiến triển chậm trong 10 năm hoặc lâu hơn.
1. Chẩn đoán bệnh giác mạc hình chóp
Các triệu chứng của giác mạc hình chóp hình chóp khi bệnh tiến triển:
- Tầm nhìn mờ hoặc méo mó.
- Tăng độ nhạy cảm với ánh sáng.
- Tật cận thị tiến triển nặng và nhanh hơn.
- Nhức đầu, đỏ mắt, mỏi mắt.
Để xác định chẩn đoán, bác sĩ cần phải kiểm tra hình dạng giác mạc bằng một số xét nghiệm.
- Phương pháp phổ biến nhất là địa hình giác mạc (corneal topography) – kỹ thuật chụp hình giác mạc và phân tích nó để phát hiện những bất thường. Thông thường, trẻ có bố hoặc mẹ mắc giác mạc hình chóp thường phải làm địa hình giác mạc mỗi năm khi trẻ lên 10 tuổi. Cho dù kết quả xét nghiệm không có gì bất thường, vẫn cần cho trẻ kiểm tra hàng năm để có thể phát hiện bệnh kịp thời.
- Cùng với việc kiểm tra mắt toàn diện, các bác sĩ nhãn khoa cũng sẽ thực hiện kiểm tra đèn khe, sử dụng 1 kính hiển vi sinh học thẳng đặc biệt để kiểm tra giác mạc. Thông thường, bệnh nhân mắc bệnh giác mạc hình chóp sẽ có nếp nhăn trong giác mạc của họ được gọi là vân Vogt.
2. Điều trị giác mạc hình chóp
Bệnh nhân cần tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ nhãn khoa. Người bệnh nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ bị sẹo giác mạc gây ảnh hưởng đến tầm nhìn và suy giảm thị lực.
2.1. Phương pháp đeo kính
Điều trị giác mạc hình chóp phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh và tình trạng tiến triển bệnh. Giác mạc hình chóp nhẹ đến trung bình có thể được điều trị bằng kính mắt hoặc kính áp tròng.
- Kính gọng hoặc kính áp tròng mềm. Kính gọng hoặc kính áp tròng mềm có thể điều chỉnh thị lực mờ hoặc méo trong giai đoạn đầu của bệnh.
- Kính áp tròng cứng. Kính áp tròng cứng thường dùng để điều trị khi bệnh tiến triển tới giai đoạn tiếp theo. Thời gian đầu đeo kính áp tròng cứng bệnh nhân có thể cảm thấy khó chịu lúc đầu. Tuy nhiên những triệu chứng này sẽ biến mất trong một vài tuần. Đây là loại kính có thể được thiết kế riêng để phù hợp với giác mạc của từng người.
- Kính áp tròng tổng hợp. Đây là kết hợp giữa kính cứng và kính mềm, bên trong kính cứng và vòng xung quanh bên ngoài kính sẽ mềm để tăng sự thoải mái.
- Kính áp tròng Scleral. Loại kính này thích hợp với người bị giác mạc hình chóp giai đoạn thứ hai. Đây là loại kính áp tròng to hơn loại bình thường, khi đeo lên sẽ lấn ra phần lòng trắng (củng mạc).
Kính áp tròng cứng hoặc kính áp tròng scleral, chỉ được bán theo toa của bác sĩ chuyên khoa mắt. Khi tiến hành điều trị giác mạc hình chóp phải đi kiểm tra mắt thường xuyên để thay kính cho phù hợp với sự phát triển của bệnh.
2.2. Phương pháp phẫu thuật
Ở một số người mắc bệnh nặng hơn, giác mạc bị sẹo khiến việc điều trị giác mạc hình chóp bằng cách đeo kính áp tròng trở nên khó khăn. Trong những trường hợp này, bác sĩ sẽ khuyên nên phẫu thuật ghép giác mạc.
Khi bị sẹo giác mạc, giác mạc phình quá mức hoặc không có khả năng đeo bất kỳ loại kính áp tròng nào có thể sẽ cần phẫu thuật. Các lựa chọn phẫu thuật cho bệnh giác mạc hình chóp bao gồm: đặt vòng implant trong giác mạc, ghép giác mạc.
Đặt vòng implant trong giác mạc:
- Bác sĩ đặt miếng nhựa nhỏ, có hình lưỡi liềm vào giác mạc để làm phẳng hình nón, hỗ trợ hình dạng giác mạc và cải thiện thị giác.
- Chèn giác mạc có thể khôi phục lại hình dạng giác mạc bình thường, làm chậm sự tiến triển của bệnh và giảm nhu cầu ghép giác mạc.
- Đây là một biện pháp tạm thời, phẫu thuật này mang những rủi ro như: nhiễm trùng và gây thương tích cho mắt.
- Nếu bệnh nhân bị sẹo giác mạc hoặc giác mạc cực mỏng, có thể sẽ cần ghép giác mạc.
- Ghép giác mạc nội mô là một ghép một phần giác mạc phía trước.
- Việc phục hồi sau phẫu thuật ghép giác mạc có thể mất tới một năm và bệnh nhân cần tiếp tục đeo kính áp tròng cứng.
- Thị lực có thể phục hồi hoàn toàn một vài năm sau cấy ghép giác mạc cho bệnh nhân bị giác mạc hình nón, giúp điều trị khỏi bệnh.
- Tuy nhiên phương pháp này có các biến chứng như: thải ghép, giảm thị lực, loạn thị, không có khả năng đeo kính áp tròng và nhiễm trùng.
Ngoài ra, Các nhà khoa học đang nghiên cứu một loại điều trị giác mạc hình chóp gọi là liên kết ngang collagen. Phương pháp này sẽ sử dụng các loại thuốc nhỏ mắt đặc biệt và tia cực tím A (UVA) để tăng cường (liên kết chéo) các mô của giác mạc. Việc điều trị vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm và cần nghiên cứu thêm trước khi đưa vào điều trị chính thức.
Đối với hầu hết mọi người, giác mạc sẽ trở nên ổn định sau một vài năm. Trong trường hợp này, bệnh nhân có thể sẽ không gặp phải vấn đề về thị lực nghiêm trọng hoặc cần điều trị thêm.
Điều trị bệnh giác mạc hình chóp kịp thời là cần thiết vì bệnh giác mạc hình chóp là một căn bệnh nguy hiểm và có thể để lại hậu quả nghiêm trọng. Vì thế nếu xuất hiện bất kỳ triệu chứng nào nghi ngờ giác mạc hình chóp hãy đến ngay các cơ sở y tế chuyên khoa gần nhất để các bác sĩ kiểm tra và điều trị.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là cơ sở y tế chất lượng cao tại Việt Nam với đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản, chuyên sâu trong nước và nước ngoài, giàu kinh nghiệm.
Hệ thống thiết bị y tế hiện đại, tối tân, sở hữu nhiều máy móc tốt nhất trên thế giới giúp phát hiện ra nhiều căn bệnh khó, nguy hiểm trong thời gian ngắn, hỗ trợ việc chẩn đoán, điều trị của bác sĩ hiệu quả nhất. Không gian bệnh viện được thiết kế theo tiêu chuẩn khách sạn 5 sao, mang đến cho người bệnh sự thoải mái, thân thiện, yên tâm.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.