Viêm gan do vi-rút là mối nguy hiểm lớn đối với sức khỏe cộng đồng và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu. Năm loại vi-rút đặc hiệu cho gan: vi-rút viêm gan A (HAV), vi-rút viêm gan B (HBV), vi-rút viêm gan C (HCV), vi-rút viêm gan D (HDV) và vi-rút viêm gan E (HEV), mỗi loại đều có đặc điểm dịch tễ, sinh học cấu trúc, khả năng lây truyền, mô hình lưu hành, nguy cơ biến chứng gan và phản ứng với liệu pháp kháng vi-rút riêng. Những loại vi-rút này là mối nguy hiểm đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nơi chúng vẫn phổ biến. Chúng được gọi là vi-rút "gây bệnh cho gan" và là nguyên nhân gây ra phần lớn bệnh viêm gan ở cả nhóm phụ nữ mang thai và không mang thai.
Bài viết được viết bởi ThS.BS Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa, Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Đánh giá nguy cơ tái hoạt viêm gan B (HBV)
Đánh giá nguy cơ tái hoạt HBV dựa trên tình trạng huyết thanh học của bệnh nhân và phác đồ thuốc ức chế miễn dịch đã lên kế hoạch. Đối với những bệnh nhân được coi là có nguy cơ tái hoạt HBV thấp, việc quản lý là vấn đề theo dõi huyết thanh học để phát hiện tái hoạt HBV và trong trường hợp tái hoạt HBV, liệu pháp kháng vi-rút phòng ngừa ngay lập tức. Đối với những bệnh nhân được coi là có nguy cơ tái hoạt HBV trung bình hoặc cao, liệu pháp dự phòng kháng vi-rút sẽ được bắt đầu cùng với liệu pháp ức chế miễn dịch, tiếp tục trong tối đa 18 tháng sau khi chấm dứt phác đồ ức chế miễn dịch. Những bệnh nhân đã từng nhiễm HBV có nguy cơ tái hoạt HBV thấp hơn so với những bệnh nhân bị nhiễm HBV mạn tính và có thể bắt đầu liệu pháp dự phòng kháng vi-rút hoặc theo dõi bệnh nhân với mục đích bắt đầu liệu pháp kháng vi-rút khi cần. Việc quản lý bệnh nhân cũng có thể được cải thiện thông qua các chương trình sàng lọc và quản lý, cũng như các công cụ hỗ trợ quyết định dựa trên các hướng dẫn này.
Bệnh thận liên quan đến HBV
Bệnh thận liên quan đến HBV (viêm đa động mạch nút hoặc bệnh thận màng) có thể cần phải ức chế miễn dịch khi có bằng chứng về tổn thương do miễn dịch nghiêm trọng, so với nguy cơ kích hoạt vi-rút tiềm ẩn. Hầu hết các thuốc kháng vi-rút HBV đều cần phải điều chỉnh liều cho bệnh nhân mắc bệnh thận mãn tính (CKD) hoặc bệnh nhân mắc bệnh thận giai đoạn cuối cần chạy thận nhân tạo, và tương tác thuốc-thuốc phải được đánh giá cẩn thận ở bệnh nhân ghép thận. Mặt khác, việc quản lý nha khoa ở bệnh nhân viêm gan B hoạt động bao gồm việc ổn định bệnh nhân cho đến khi tình trạng nhiễm trùng gan hoạt động của họ thuyên giảm, với bất kỳ phương pháp điều trị nha khoa nào cũng phải được hoãn lại cho đến khi hồi phục.
Ngăn ngừa
Có thể ngăn ngừa lây truyền HBV thông qua tiêm chủng; những tiến bộ đáng kể trong điều trị HBV đã phát triển và tỷ lệ tiêm chủng đã được cải thiện. Có các chương trình tiêm chủng phổ biến hiệu quả, nhưng chúng thường tập trung vào nhóm dân số trẻ hơn, khiến nhóm dân số cao tuổi vẫn có nguy cơ tiếp tục gánh chịu gánh nặng bệnh tật lớn hơn. Mặt khác, viêm gan B là dạng vi-rút phổ biến nhất và là một trong những mục tiêu của chương trình sàng lọc trước khi sinh. Vắc-xin phòng ngừa viêm gan B, đã được xác định là an toàn khi mang thai, được khuyến nghị cho những phụ nữ có nguy cơ nhiễm trùng.
Ở những phụ nữ mang thai bị viêm gan B hoạt động và tải lượng vi-rút cao (> 200000 IU/mL) trong tam cá nguyệt thứ ba, điều trị bằng tenofovir disoproxil fumarate kháng vi-rút được khuyến nghị như một biện pháp dự phòng chống lây truyền dọc. Trẻ sơ sinh tiếp xúc với viêm gan B khi sinh ra nên được tiêm immunoglobulin G và vắc-xin liều đơn khi sinh trong vòng 12 giờ, sau đó tiêm đủ ba liều vắc-xin. Theo báo cáo do WHO khu vực Đông Địa Trung Hải công bố, tỷ lệ tiêm vắc-xin viêm gan B cho trẻ sơ sinh trong khu vực là 82% đối với liều thứ ba và 33% đối với liều kịp thời khi sinh, tính đến năm 2019.
Viêm gan B mãn tính (CHB) có thể dẫn đến xơ gan dần dần, một yếu tố nguy cơ HCC độc lập. Không giống như ở các nước phương Tây, nhiễm HBV mạn tính là nguyên nhân chính gây HCC ở nhiều nước châu Á ngoài Nhật Bản. Gần đây, ngày càng có nhiều bằng chứng chỉ ra tầm quan trọng ngày càng tăng của quá trình metyl hóa RNA (biến đổi m6A) trong quá trình sao chép vi-rút, thoát khỏi hệ miễn dịch và gây ung thư. Đối với những bệnh nhân đã từng tiếp xúc với HBV đang điều trị ức chế miễn dịch, tái hoạt HBV là biến chứng có khả năng gây tử vong. Biến chứng này có thể xảy ra ở cả những bệnh nhân bị nhiễm HBV mạn tính và những bệnh nhân đã khỏi nhiễm HBV.
Dữ liệu hiện có cung cấp bằng chứng rằng, do cả cơ chế trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy quá trình gây ung thư gan, nhiễm HBV có liên quan đến nguy cơ phát triển HCC, có hoặc không có xơ gan tiềm ẩn. Đã có nghiên cứu liên tục sâu rộng về cấu hình phân tử của HBV-HCC; người ta biết rằng đây là kết quả của các con đường phân tử bị thay đổi, làm thay đổi vi môi trường và gây tổn thương DNA. HBV tạo ra HBx, một loại protein đóng vai trò quan trọng trong quá trình gây ung thư. Hơn nữa, mặc dù HDV bắt buộc phải phụ thuộc vào HBV, cấu hình phân tử của HBV-HCC gần đây đã được phân biệt với cấu hình của HDV-HCC
Sàng lọc HBV ở bệnh nhân HIV
HBV là một bệnh nhiễm trùng phổ biến ở những người nhiễm HIV, do các phương thức lây truyền vi-rút chung. So với những người chỉ bị nhiễm HBV, những người đồng nhiễm cả HIV và HBV sẽ bị bệnh gan tiến triển nhanh hơn và phải đối mặt với nguy cơ mắc HCC, tử vong liên quan đến gan và tử vong do mọi nguyên nhân cao hơn. Do đó, điều quan trọng đối với những người nhiễm HIV là phải sàng lọc HBV và điều trị thích hợp. Mặt khác, các đợt bùng phát HBV cấp tính sau khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng vi-rút HIV đã được báo cáo ở 20% -25% các trường hợp đồng nhiễm, trong số đó chỉ có 1% -5% tiếp tục phát triển thành viêm gan lâm sàng. Điều này có tác dụng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát hiện và xử lý sớm các đợt bùng phát của hội chứng viêm phục hồi miễn dịch - HBV, sau khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng vi-rút ở những bệnh nhân đồng nhiễm.
Ngoài ra, nên tiếp tục dùng liệu pháp kháng vi-rút, nhắm vào cả hai loại vi-rút. HBV có thể dẫn đến các bệnh gan nghiêm trọng, bao gồm xơ gan, viêm gan tối cấp và HCC, và là nguyên nhân gây tử vong đáng kể trên toàn thế giới. Ngoài ra, các nghiên cứu ban đầu về tiền sử tự nhiên của tình trạng đồng nhiễm HIV/HBV đã chỉ ra rằng CHB tiến triển nhanh hơn ở những bệnh nhân đồng nhiễm so với những bệnh nhân chỉ nhiễm HBV, dẫn đến HCC và các biến chứng bệnh gan giai đoạn cuối khác. Hơn nữa, những bệnh nhân ung thư bị nhiễm HBV phải đối mặt với nguy cơ tái hoạt động của vi-rút cao sau khi điều trị ung thư. Mặt khác, đã có những báo cáo về kết quả lâm sàng tốt sau khi ghép từ người hiến tặng bị nhiễm HBV, vì tính hiệu quả và mức độ dung nạp cao của các phương pháp điều trị.
Tài liệu tham khảo
1. Cooke GS, . Accelerating the elimination of viral hepatitis: a Lancet Gastroenterology & Hepatology Commission. Lancet Gastroenterol Hepatol. 2019;4:135-184
2. Sinn DH, Cho EJ, Kim JH, Kim DY, Kim YJ, Choi MS. Current status and strategies for viral hepatitis control in Korea. Clin Mol Hepatol. 2017;23:189-195
3. Usuda D, et allCurrent perspectives of viral hepatitis. World J Gastroenterol 2024; 30(18): 2402