Vào giữa những năm 1980, thực hành y tế cộng đồng đã xác định dịch tế học bao gồm năm mục tiêu chính. Thời gian gần đây, dịch tễ học đã được bổ sung thêm nhiệm vụ mới.
1. Giám sát sức khỏe cộng đồng
Việc thu thập, phân tích, giải thích và phổ biến dữ liệu y tế liên tục để giúp hướng dẫn việc ra quyết định và hành động về sức khỏe cộng đồng chính là giám sát sức khỏe cộng đồng. Đây là một trong những chức năng cốt lõi của dịch tễ học.
Mục tiêu của giám sát sức khỏe cộng đồng hay còn được gọi là thông tin cho hành động nhằm miêu tả các dịch bệnh liên tục xảy ra và các dịch bệnh tiềm ẩn để áp dụng điều tra, kiểm soát và các biện pháp phòng ngừa một cách hiệu quả.
Những nhiệm vụ này được thực hiện thông qua việc thu thập và đánh giá một cách có hệ thống các báo cáo về tỷ lệ mắc bệnh tỷ lệ tử vong cùng các thông tin sức khỏe có liên quan. Phổ biến và giải thích các dữ liệu này cho những người liên quan đến kiểm soát dịch bệnh và ra quyết định về sức khỏe cộng đồng.
Báo cáo về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong là nguồn dữ liệu giám sát phổ biến cho các sở y tế địa phương và tiểu bang. Các báo cáo này thường được gửi bởi các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bác sĩ kiểm soát nhiễm trùng hoặc phòng thí nghiệm được yêu cầu thông báo cho bộ phận y tế của bất kỳ bệnh nhân nào mắc bệnh phải báo cáo như ho gà, viêm màng não do não mô cầu hoặc AIDS.
Các nguồn dữ liệu liên quan đến sức khỏe khác được sử dụng để giám sát bao gồm các báo cáo từ điều tra các trường hợp cá nhân và cụm bệnh, dữ liệu chương trình y tế công cộng như bảo hiểm tiêm chủng trong cộng đồng, đăng ký bệnh và điều tra sức khỏe cộng đồng.
Thông thường, giám sát dựa trên các hệ thống đơn giản để thu thập một lượng thông tin hạn chế về từng trường hợp. Mặc dù không phải mọi trường hợp bệnh đều được báo cáo, tuy nhiên các quan chức y tế thường xuyên xem xét các báo cáo trường hợp họ nhận được và tìm kiếm các mẫu trong số đó.
Những nhiệm vụ này đã được chứng minh là vô giá trong việc phát hiện các vấn đề, đánh giá các chương trình và hướng dẫn hành động y tế công cộng.
Mặc dù giám sát sức khỏe cộng đồng theo truyền thống tập trung vào các bệnh truyền nhiễm, các hệ thống giám sát hiện tồn tại các mục tiêu bao gồm chấn thương, bệnh mãn tính, di truyền và dị tật bẩm sinh, bệnh nghề nghiệp và có khả năng liên quan đến môi trường và hành vi sức khỏe.
Kể từ ngày 11 tháng 9 năm 2001, một loạt các hệ thống dựa trên báo cáo điện tử đã được đưa vào ứng dụng, bao gồm các hệ thống báo cáo các chuyến thăm khoa cấp cứu hàng ngày, bán thuốc không kê đơn và sự vắng mặt của công nhân.
Vì các nhà dịch tễ học có thể yêu cầu sử dụng các hệ thống giám sát mới này, nên năng lực cốt lõi của nhà dịch tễ học phải bao gồm thiết kế các công cụ thu thập dữ liệu, quản lý dữ liệu, phương pháp mô tả và vẽ biểu đồ, giải thích dữ liệu, viết và trình bày khoa học.
2. Điều tra hiện trường
Một trong những việc làm đầu tiên xuất phát từ báo cáo trường hợp giám sát hoặc báo cáo của một cụm là điều tra của sở y tế công cộng. Cuộc điều tra có thể bị giới hạn như một cuộc gọi điện thoại cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để xác nhận hoặc làm rõ các trường hợp được báo cáo, hoặc nó có thể liên quan đến một cuộc điều tra thực địa đòi hỏi nỗ lực phối hợp của những người có liên quan nhằm mô tả mức độ của dịch bệnh và để xác định nguyên nhân gây ra tình trạng này.
Mục tiêu của các cuộc điều tra như vậy cũng khác nhau. Các cuộc điều tra thường nhằm mục đích xác định thêm những người bị bệnh không được báo cáo hoặc không được công nhận, những người có thể tiếp tục lây nhiễm cho người khác.
Ví dụ, một trong những đặc điểm nổi bật của việc điều tra những người mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục là việc xác định bạn tình hoặc mối quan hệ của bệnh nhân. Khi được phỏng vấn, nhiều người trong số những người này bị phát hiện nhiễm bệnh mà không biết và được điều trị mà họ không nhận ra họ cần. Xác định và điều trị các trường hợp này ngăn ngừa tình trạng lây lan.
Với một số trường hợp, mục tiêu của một cuộc điều tra có thể chỉ đơn giản là tìm hiểu thêm về lịch sử tự nhiên, phổ lâm sàng, dịch tễ học mô tả và các yếu tố nguy cơ của bệnh trước khi xác định phương pháp can thiệp nào có thể phù hợp.
Cần điều tra sớm về dịch SARS năm 2003 để thiết lập định nghĩa ca bệnh dựa trên biểu hiện lâm sàng và đặc trưng cho các quần thể có nguy cơ theo thời gian, địa điểm và con người. Khi đã hiểu nhiều hơn về dịch tễ học về bệnh và khả năng truyền bệnh của virus, các khuyến nghị thích hợp liên quan đến cách ly và kiểm dịch đã được ban hành.
3. Nghiên cứu phân tích
Để xác định nguyên nhân và phương thức lây truyền cùng các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa bệnh thích hợp thường chỉ gần giám sát và điều tra hiện trường là đủ. Tuy nhiên, một số nghiên cứu phân tích khác cần sử dụng các phương pháp nghiêm ngặt hơn. Điều này là cần thiết.
Thông thường các phương pháp được sử dụng kết hợp - với giám sát và điều tra thực địa cung cấp manh mối hoặc giả thuyết về nguyên nhân và phương thức lây truyền, trong khi các nghiên cứu phân tích đánh giá độ tin cậy của các giả thuyết đó.
Các cụm hoặc ổ dịch bệnh thường xuyên được bắt đầu điều tra với dịch tễ học mô tả. Phương pháp mô tả liên quan đến việc nghiên cứu tỷ lệ mắc và lây lan bệnh theo thời gian, địa điểm và con người. Điều này bao gồm việc tính toán tỷ lệ và xác định bộ phận dân số có nguy cơ cao hơn những người khác.
Đôi khi, khi mối liên quan giữa phơi nhiễm và dịch bệnh khá chặt chẽ, cuộc điều tra có thể dừng lại khi dịch tễ học mô tả hoàn tất và các biện pháp kiểm soát có thể được thực hiện ngay lập tức.
Cuộc điều tra bệnh dịch tả năm 1854 của John Snow là một ví dụ. Các nghiên cứu mô tả, như điều tra các trường hợp, tạo ra các giả thuyết có thể được kiểm tra bằng các nghiên cứu phân tích. Trong khi một số điều tra thực địa được thực hiện để đối phó với các vấn đề sức khỏe cấp tính như dịch bệnh, nhiều nghiên cứu khác được lên kế hoạch.
Đặc trưng của một nghiên cứu dịch tễ học phân tích là việc sử dụng một nhóm so sánh hợp lệ. Các nhà dịch tễ học phải có kỹ năng trong tất cả các khía cạnh của các nghiên cứu đó, bao gồm thiết kế, tiến hành, phân tích, giải thích và truyền đạt kết quả.
- Thiết kế bao gồm xác định chiến lược nghiên cứu và thiết kế nghiên cứu phù hợp, các biện minh và giao thức, tính toán kích thước mẫu, quyết định các tiêu chí để lựa chọn đối tượng (ví dụ: phát triển định nghĩa trường hợp), chọn nhóm so sánh phù hợp và thiết kế bảng câu hỏi.
- Hành vi liên quan đến việc đảm bảo sự thông quan và phê duyệt phù hợp, tuân thủ các nguyên tắc đạo đức phù hợp, trừu tượng hóa hồ sơ, theo dõi và phỏng vấn các đối tượng, thu thập và xử lý mẫu vật và quản lý dữ liệu.
- Phân tích bắt đầu với việc mô tả các đặc điểm của các đối tượng, nhằm tiến tới việc tính toán tỷ lệ, tạo ra các bảng so sánh và tính toán các biện pháp liên kết, các thử nghiệm có ý nghĩa, khoảng tin cậy... phần lớn các nghiên cứu dịch tễ học đòi hỏi các kỹ thuật phân tích tiên tiến hơn như phân tích phân tầng, hồi quy và mô hình hóa.
- Cuối cùng, giải thích các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu, nhằm đưa ra các thông điệp và khuyến nghị hợp lý.
4. Đánh giá
Đánh giá các dịch vụ y tế công cộng và các hoạt động y tế khác chính là vai trò quan trọng của dịch tễ học. Đánh giá là quá trình xác định một cách có hệ thống và khách quan nhất có thể, sự phù hợp, hiệu quả và tác động của các hoạt động liên quan đến các mục tiêu đã được đưa ra.
- Hiệu quả đề cập đến kết quả của một chương trình y tế tạo ra kết quả dự kiến; hiệu quả này chính là khả năng tạo ra kết quả trong điều kiện lý tưởng.
- Hiệu quả đề cập đến kết quả của chương trình y tế tạo ra kết quả dự định với chi phí tối thiểu về thời gian và nguồn lực.
Bản thân việc đánh giá có thể tập trung vào các kế hoạch (đánh giá quá trình), hoạt động (đánh giá quá trình), tác động (đánh giá tổng kết) hoặc kết quả - hay bất kỳ sự kết hợp nào giữa các nhiệm vụ này.
Chẳng hạn như đánh giá chương trình tiêm chủng, có thể đánh giá hiệu quả của các hoạt động, tỷ lệ dân số mục tiêu được tiêm chủng và tác động rõ ràng của chương trình đối với tỷ lệ mắc các bệnh có thể được phòng ngừa bằng vắc-xin.
Tương tự, việc đánh giá một hệ thống giám sát có thể giải quyết các hoạt động và thuộc tính của hệ thống, khả năng phát hiện các trường hợp hoặc ổ dịch và tính hữu dụng của nó.
5. Liên kết các cơ quan liên quan
Các nhà dịch tễ học làm việc trong môi trường y tế công cộng hiếm khi hành động riêng lẻ. Trên thực tế, dịch tễ học tại hiện trường thường được cho là một môn thể thao đồng đội. Trong một cuộc điều tra, một nhà dịch tễ học thường tham gia với tư cách là thành viên hoặc lãnh đạo của một nhóm đa ngành.
Các thành viên khác trong nhóm có thể là người lao động, người vệ sinh, nhân viên kiểm soát nhiễm trùng, y tá hoặc nhân viên lâm sàng khác, và có cả các chuyên gia thông tin máy tính.
Nhiều ổ dịch vượt qua cả khu vực địa lý và quyền tài phán, do đó, các nhà điều tra có thể đến từ các cấp chính quyền địa phương, tiểu bang hoặc liên bang, các tổ chức học thuật, cơ sở lâm sàng. Để thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ quan liên quan trong hiện tại và tương lai, các nhà dịch tễ học cần duy trì mối quan hệ với nhân viên của các cơ quan và tổ chức khác.
6. Chính sách phát triển
Chức năng quan trọng nhất cả dịch tễ học chính là ứng dụng của những nghiên cứu này vào việc kiểm soát các vấn đề liên quan đến sức khỏe. Các nhà dịch tễ học thường hiểu một vấn đề và quy mô dịch bệnh mà nó xảy ra thường ở một vị trí đủ điều kiện để đề xuất các biện pháp can thiệp thích hợp.
Do đó, các nhà dịch tễ học làm việc trong lĩnh vực y tế công cộng thường xuyên cung cấp đầu vào, lời khai và các khuyến nghị liên quan đến chiến lược kiểm soát bệnh, quy định về bệnh phải báo cáo và chính sách chăm sóc sức khỏe.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Bài viết tham khảo nguồn: CDC, Who.int